Vì sao Mỹ cho 76 con hải ly nhảy dù xuống Lưu vực Chamberlain?

Việc Mỹ thả 76 con hải ly xuống Lưu vực Chamberlain bằng dù sau Thế chiến thứ 2 là một sự kiện có thật diễn ra vào năm 1948.

Mục đích của chiến dịch độc đáo này là di dời hải ly đến một khu vực mới có môi trường sống phù hợp hơn và kiểm soát sự gia tăng số lượng của chúng ở khu vực cũ.

Hải ly là loài động vật được nhiều người trong chúng ta yêu thích. Chúng không chỉ dễ thương mà còn cần cù trong việc việc xây đập giúp giữ cho hệ sinh thái nơi chúng sinh sống khỏe mạnh. Đập hải ly giúp làm chậm dòng chảy của sông suối, giảm thiểu xói mòn đất và các ao được hình thành bởi những con đập đó sẽ bổ sung nguồn cung cấp nước ngầm. Ao hải ly trở thành nhà của nhiều loài động vật khác. Và các con đập đóng vai trò như bộ lọc tự nhiên đối với dòng nước chảy, cải thiện chất lượng ở hạ lưu.

Nhưng các đập hải ly cũng có thể làm tăng nhiệt độ dòng chảy ở thượng nguồn và hút oxy trong nước về lâu dài. Và hải ly có thể gây hại đến cây trồng và vườn nhà. Theo National Geographic, đó là lời phàn nàn chính của các gia đình chuyển từ thành phố lớn đến tây nam Idaho trong những năm ngay sau Thế chiến thứ hai.

Vi sao My cho 76 con hai ly nhay du xuong Luu vuc Chamberlain?

Vào những năm 1940, quần thể hải ly ở bang Idaho, Hoa Kỳ, đã phát triển mạnh mẽ đến mức gây ra thiệt hại cho hệ sinh thái địa phương. Hải ly đốn hạ cây cối dọc theo bờ sông, dẫn đến xói mòn đất và ảnh hưởng đến chất lượng nước. Ngoài ra, chúng cũng làm hỏng đập và kênh đào, gây ra thiệt hại cho tài sản và cơ sở hạ tầng.

Theo đó, trách nhiệm loại bỏ hải ly ở phía tây nam Idaho khỏi các khu định cư mới của con người thuộc về Cục Thủy sản và Giải trí (Fish and Game Department), và cách thực hiện điều đó là một vấn đề lớn đối với cơ quan này. Họ không muốn giết hải ly; các thành viên trong cục biết giá trị của chúng đối với hệ sinh thái địa phương và đã có nỗ lực phối hợp vào thời điểm đó để khôi phục quần thể hải ly sau nhiều thập kỷ bị săn bắt quá mức. Nhưng nếu chúng được di chuyển thay vì bị tiêu hủy thì ngôi nhà mới của chúng sẽ được đặt ở đâu?

Trung tâm Idaho nắm giữ một khu vực được bảo vệ, khu vực hoang dã Frank Church-River of No Return. Trong khu vực đó là lưu vực Chamberlain, một nơi có nhiều rừng và một con lạch nổi bật. Nó dường như là nơi lý tưởng để di dời hải ly. Tuy nhiên, câu hỏi lúc này là làm thế nào để đưa chúng đến đó. Việc di dời động vật hoang dã như vậy là không bình thường vào năm 1948 và các phương pháp được sử dụng trước đây - bẫy động vật, di chuyển chúng bằng ngựa hoặc la lên xe tải và chở chúng đến con đường gần nơi ở mới của chúng - có những hạn chế đáng kể.

Elmo W. Heter, nhân viên của Fish and Game Department, viết trong một bài báo trên Tạp chí Quản lý Động vật hoang dã (Journal of Wildlife Management): "Phương thức vận chuyển thông thường trong trường hợp này sẽ rất tốn kém, gian khổ, với thời gian kèo dài và dẫn đến tỷ lệ tử vong cao". Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong của hải ly trong những chuyến đi như vậy bao gồm: mùi của hảy ly làm phiền những con ngựa chịu trách nhiệm chở chúng; việc bắt và vận chuyển có thể khiến nhiều hải ly khó chịu, khiến chúng trở nên hung dữ; hải ly có khả năng chịu nhiệt kém khi ra khỏi nước; ap lực về nhiệt độ và việc di chuyển khắc nghiệt đến mức một số hải ly không chịu ăn sau một thời gian.

Vi sao My cho 76 con hai ly nhay du xuong Luu vuc Chamberlain?-Hinh-2

Việc di dời hải ly bằng phương tiện thông thường như xe tải hoặc ngựa gặp nhiều khó khăn do kích thước và trọng lượng của chúng. Hải ly cũng có thể hung dữ và khó kiểm soát khi bị di chuyển bằng cách này.

Sau khi viết về những vấn đề của cách vận chuyển hải ly, Elmo W. Heter bắt đầu tìm ra một cách tốt hơn. Anh ấy nghĩ ra rằng tốt nhất là nên chuyển chúng vào giữa mùa hè; mùa di cư của chúng kết thúc và chúng sẽ có thời gian để thích nghi với ngôi nhà mới. Và anh ấy biết từ những nỗ lực di dời trước đây rằng tốt hơn là nên di chuyển những con hải ly non, lý tưởng nhất là bốn con mỗi lần với một con đực cùng ba con cái hoặc hai con đực, hai con cái. Nhưng câu hỏi vẫn còn đó: hải ly sẽ di chuyển như thế nào?

Theo đó, Heter đã nảy ra ý tưởng sử dụng những chiếc dù dư thừa của quân đội để thả hải ly vào ngôi nhà mới của chúng từ máy bay. Điều này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng ít nhất nó cũng mang lại lợi ích kinh tế vào thời điểm đó; theo Đài phát thanh công cộng bang Boise, điều này sẽ chỉ tiêu tốn 30 USD, tương đương 379,30 USD theo đơn vị tiền tệ năm 2024. Nhưng vì hải ly không có khả năng vận hành một chiếc dù tiêu chuẩn, nên Heter phải nghĩ ra những chiếc thùng vận chuyển có thể được đưa xuống máy bay một cách an toàn và hải ly có thể dễ dàng thoát ra khi chúng hạ cánh.

Vi sao My cho 76 con hai ly nhay du xuong Luu vuc Chamberlain?-Hinh-3

Geronimo, cùng với ba con cái, trở thành con đầu tiên trong số 76 con hải ly được di dời từ tây nam Idaho đến lưu vực Chamberlain sau khi phương pháp nhảy dù được thông qua. Chúng được thả xuống đồng cỏ trong vùng trong một loạt chuyến bay trong nhiều ngày. Tất cả trừ một trong những con hải ly đều sống sót sau cuộc hành trình; nạn nhân duy nhất cố gắng bò lên trên thùng của mình và nhảy hoặc rơi ở độ cao 75 feet so với mặt đất. So với các phương thức vận chuyển cũ, những con hải ly đều tỏ ra khỏe mạnh hơn sau chuyến đi.

Hậu duệ của 76 con hải ly nhảy dù này hiện tại vẫn còn ở lưu vực Chamberlain và chúng được ghi nhận vẫn phát triển mạnh mẽ.

Loài lợn quái dị nhất hành tinh, biết đào hang, bơi lội thành thần

Dù có khả năng sinh sản mạnh mẽ, loài lợn quái dị này hiện đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng và được bảo vệ nghiêm ngặt.

Loai lon quai di nhat hanh tinh, biet dao hang, boi loi thanh than
Lợn đất (Orycteropus afer) là loài động vật có vú sống ở Nam châu Phi và sa mạc Sahara, nổi tiếng với vẻ ngoài kỳ lạ pha trộn giữa nhiều loài: mõm giống lợn, tai giống thỏ, đuôi giống kangaroo, và chân giống thú ăn kiến. 

Top 8 động vật có hình thù kỳ dị khó tin, ám ảnh nhất số 4

Những loài động vật này có vẻ ngoài kỳ lạ và đôi khi đáng sợ, nhưng chúng đều có những đặc điểm và chức năng riêng trong môi trường sống của mình.

Top 8 dong vat co hinh thu ky di kho tin, am anh nhat so 4
1. Cá Eurypharynx pelecanoides (Cá chình bồ nông): Là một trong những loài động vật bị "lỗi" ngay từ khâu tạo hình của mẹ thiên nhiên, cá chình bồ nông có với miệng to giống miệng bồ nông, đuôi phát sáng và phần bụng gần như biến mất. 

Người tiên phong nghiên cứu “văn hóa động vật”

Kinji Imanishi (1902-1992), nhà tự nhiên học và nhân loại học người Nhật Bản, đã có những đóng góp quan trọng cho tư tưởng sinh thái với vai trò tiên phong trong nghiên cứu “văn hóa động vật”.

Từ thời kỳ Khai sáng, các mô hình kinh tế, ngôn từ và khái niệm của phương Tây đã vô tình tước đi sự sống động vốn có của tự nhiên. Chủ nghĩa nhị nguyên tạo ra sự đối lập giả tạo giữa "tự nhiên" và "văn hóa", biện minh cho việc khai thác, hủy hoại môi trường (Sibatani, 1983). Ngay cả lúc này, chúng ta vẫn còn vướng phải những định kiến coi các khái niệm trừu tượng như "đa dạng sinh học" chỉ là một quá trình cần kiểm soát.
Nguoi tien phong nghien cuu “van hoa dong vat”
 Kinji Imanishi (1902 - 1992). Nguồn: INT.
Trong bối cảnh Trái đất đang đối mặt với khủng hoảng sinh thái, chúng ta cần tìm đến những góc nhìn khác biệt như triết lý của Imanishi. Ngay từ những năm 1940, Imanishi đã đưa ra những quan điểm tiên phong, nhấn mạnh sự liên kết mật thiết giữa sinh vật và môi trường sống, thay vì coi thiên nhiên như một cỗ máy cần chinh phục theo quan niệm phổ biến khi đó (Imanishi, 1941).
Những phát hiện của Imanishi về hành vi và tổ chức xã hội của loài khỉ Nhật Bản đã đặt nền móng cho ngành linh trưởng học. Ông cũng là người đầu tiên đề cập khái niệm "văn hóa động vật" khi quan sát thấy hiện tượng rửa khoai lang ở đảo Koshima - một hành vi được truyền bá và duy trì qua nhiều thế hệ khỉ (Kawai, 1965). Bên cạnh đó, triết lý tiến hóa độc đáo của Imanishi, với việc nhấn mạnh vai trò của loài và "xã hội loài" thay vì cạnh tranh cá thể, cũng thách thức các quan niệm cuả Darwin vốn thống trị trong khoa học phương Tây (Sibatani, 1983).
Những tư tưởng tiên phong của Imanishi mở ra hướng mới để nhìn nhận lại mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Di sản của ông còn truyền cảm hứng cho các nhà khoa học trong hành trình khám phá những bí ẩn của sự sống và tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề sinh thái đương đại.
Triết lý về một thiên nhiên hài hòa, hợp tác
Trái ngược với quan điểm tiến hóa thịnh hành ở phương Tây cho rằng sự sống chỉ bị chi phối bởi cạnh tranh và chọn lọc tự nhiên, Imanishi tin rằng thiên nhiên là nguồn gốc của sự hài hòa và hợp tác. Ông phản đối tư tưởng tách biệt con người khỏi thế giới tự nhiên, và chủ trương rằng tất cả sinh vật, môi trường sống đều có mối liên hệ mật thiết, tạo nên một "đại gia đình" gắn kết (Imanishi, 1941, trích dẫn từ Sibatani, 1983).
Mặc dù quan điểm của Imanishi chưa có nhiều bằng chứng khoa học cụ thể lúc bấy giờ, triết lý tự nhiên độc đáo của ông đã mở ra một hướng suy nghĩ mới về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Những tư tưởng này có thể coi là tiên phong, xuất hiện trước các trào lưu nhân văn - sinh thái tương tự ở phương Tây tới gần 70 năm.
Vào thời điểm ra đời, tư tưởng của Imanishi vẫn còn khá xa lạ ở phương Tây. Theo nhà nghiên cứu linh trưởng học Frans de Waal (1948-2024), điều này một phần là do "tư duy thực dân" vẫn còn ăn sâu. Ông từng nhận xét: "Người phương Tây khó có thể tưởng tượng nổi một hệ phương pháp khoa học tiên tiến lại đến từ một châu lục khác" (de Waal, 2002). Những rào cản tư duy như vậy đã khiến cho các giá trị trong triết lý của Imanishi mất rất nhiều thời gian mới có thể tiếp cận công chúng quốc tế.
Sự độc đáo trong tư tưởng của Imanishi bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Đông-Tây. Sinh năm 1902 thời kỳ Minh Trị, ông đã chứng kiến Nhật Bản trải qua quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ. Imanishi tiếp thu cả tri thức khoa học phương Tây và quan niệm vạn vật hữu linh truyền thống, và tìm cách dung hòa cả hai (Asquith, 1997).
Khác với các đồng nghiệp phương Tây thường nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, Imanishi lại xây dựng các giả thuyết của mình giữa thiên nhiên. Là một nhà leo núi lừng danh, ông đã chinh phục hơn 1.500 đỉnh núi tại Nhật Bản và khai phá nhiều tuyến đường mới ở dãy Himalaya. Chính trên những đỉnh núi ấy, Imanishi thấm nhuần niềm tin rằng nghiên cứu về đời sống tự nhiên là vô cùng quan trọng, ngay cả khi các nhà khoa học đương thời chủ yếu ưu tiên nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
Imanishi sớm định nghĩa "khoa học tự nhiên" theo cách riêng, phản đối quan niệm của phương Tây về tự nhiên như một đối tượng cơ học tách rời khỏi người quan sát. Nói cách khác, quan điểm của ông phủ nhận chủ nghĩa nhị nguyên thời hiện đại. Theo Imanishi, "khoa học tự nhiên" là khoa học về môi trường, chú trọng đến sức sáng tạo, tính xã hội, tình cảm chung của sinh giới. Ông từng viết: "Dù có giải phẫu tự nhiên đến đâu, chúng ta cũng chỉ làm nó bé nhỏ đi thôi" (Imanishi, 1941).
Đi ngược lại thái độ tự cho mình đứng trên tự nhiên của khoa học phương Tây, Imanishi chọn cách khiêm tốn. "Chúng ta có trách nhiệm dạy công chúng rằng thiên nhiên không chỉ đơn thuần là vật chất", ông nói. "Nó là một thực thể sống, là cơ thể người mẹ, người khổng lồ, sinh vật huyền bí luôn dưỡng nuôi chúng ta cùng vô vàn loài khác" (Imanishi, 1941).
Ý tưởng về khả năng học hỏi và truyền đạt kiến thức ở động vật
Nguoi tien phong nghien cuu “van hoa dong vat”-Hinh-2
Kinji Imanishi sinh ra tại Kyoto, là giáo sư danh dự của Đại học Kyoto và Đại học Gifu. Năm 1939, ông nhận bằng Tiến sĩ Khoa học từ Đại học Hoàng gia Kyoto với luận án "Nghiên cứu về bộ côn trùng cánh dày (Plecoptera) ở các dòng suối Nhật Bản". Ông được biết đến như người sáng lập ngành nghiên cứu linh trưởng học ở Nhật Bản. Nguồn: www.animalsasia.org 
 Imanishi là người đầu tiên đề cập khái niệm "văn hóa động vật" (Kaluchua trong tiếng Nhật). Từ những năm 1950, ông đã chỉ ra rằng sự tiến hóa không chỉ dựa trên yếu tố di truyền, mà còn cả trên sự sáng tạo và học hỏi của từng nhóm động vật, được truyền qua các thế hệ (Kawamura, 1959).

Đọc nhiều nhất

Tin mới