Những phát minh của phụ nữ đã góp phần thay đổi thế giới

Trong suốt lịch sử, phụ nữ đã đấu tranh để đánh dấu tiếng nói của mình. Và không có gì ngạc nhiên khi một số lượng đáng kể các nhà khoa học nữ trong suốt lịch sử đã bị bỏ qua chỉ vì giới tính.

Dưới đây là những phát minh đáng nhớ của phụ nữ đã được ghi nhận:

1. Băng vệ sinh: Mary Beatrice Davidson Kenner

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi

Những phát minh của phụ nữ đã góp phần thay đổi thế giới.

Mary Kenner đã nhận được 5 bằng sáng chế trong đời. Bà không chỉ là một nhà phát minh lỗi lạc của thế kỷ 20 mà còn là người giữ kỷ lục về số lượng bằng sáng chế được trao cho một phụ nữ Mỹ gốc Phi nhiều nhất. Năm 1957, Kenner đã tiết kiệm đủ tiền cho bằng sáng chế đầu tiên và được chú ý nhất của mình cho băng vệ sinh. Rất lâu trước khi băng vệ sinh dùng một lần ra đời, phụ nữ vẫn sử dụng những miếng vải trong thời kỳ kinh nguyệt.

Kenner đã đề xuất một chiếc thắt lưng có thể điều chỉnh được tích hợp túi đựng khăn ăn chống ẩm, giúp máu kinh nguyệt ít bị rò rỉ và làm bẩn quần áo hơn. “Một ngày nọ, tôi được liên hệ bởi một công ty bày tỏ sự quan tâm đến việc tiếp thị ý tưởng của tôi. Tôi đã rất vui mừng,” Mary nói. “Tôi nhìn thấy nhà cửa, ô tô và mọi thứ sắp đến với mình”.

Một đại diện công ty lái xe đến nhà Kenner để gặp khách hàng tiềm năng của họ. Nhưng sau cuộc họp, họ bất ngờ phá vỡ thỏa thuận. Cuối cùng, không có hỗ trợ tài chính, bằng sáng chế của Kenner đã hết hạn. Các công ty khác sau đó có thể thực hiện và bán ý tưởng của bà một cách hợp pháp, và bà không kiếm được lợi nhuận.

2. Tã dùng một lần: Marion Donovan

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi-Hinh-2

Marion Donovan là một trong những nhà phát minh phụ nữ thành công nhất trong thời đại của bà, đã nhận được tổng cộng 20 bằng sáng chế. Vào những năm 40, phụ nữ có rất ít lựa chọn cho con của họ. Nó chủ yếu chỉ là tã vải và quần cao su, gây ra những vết hăm tã đau đớn. Donovan là một bà mẹ trẻ phát ốm với việc thay ga cũi ướt. Bà kéo rèm tắm của mình xuống, cắt nó thành nhiều mảnh và làm thành một chiếc tã lót không thấm nước có khuy bấm thay vì kim băng và gọi nó là Boater.

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi-Hinh-3

Nhưng các nhà sản xuất không quan tâm đến ý tưởng của bà. Năm 1949, bà bắt đầu bán “The Boater” tại Saks Fifth Avenue, nơi nó lập tức thành công vang dội. 2 năm sau, bà bán công ty và bằng sáng chế của mình với giá một triệu đô la.

3. Xung vô tuyến - Jocelyn Bell Burnell

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi-Hinh-4

Jocelyn Bell Burnell đã phát hiện ra các xung vô tuyến bất thường vào năm 1967 khi đang làm trợ lý nghiên cứu tại Cambridge. Nó đã trở thành một trong những khám phá thiên văn kỳ diệu nhất của thế kỷ 20. Jocelyn đã cho cố vấn của mình xem khám phá của mình và cả nhóm bắt đầu làm việc cùng nhau để nghiên cứu hiện tượng này. Tuy nhiên, Burnell không nhận được số tiền nào cho khám phá của mình. Thay vào đó, các cố vấn của bà, Antony Hewish và Martin Ryle, đã nhận giải Nobel Vật lý năm 1974. Burnell sau đó đã thừa nhận: “Tôi có thể không nhận được giải Nobel, nhưng tôi đã giành được vô số giải thưởng khác, bao gồm cả giải thưởng 'Nữ khoa học gia truyền cảm hứng nhất.”

4. Chuỗi xoắn kép DNA - Rosalind Franklin

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi-Hinh-5

Rosalind Franklin đã có đóng góp quan trọng cho khoa học. Những bức ảnh chụp X-quang DNA của bà đã tiết lộ cấu trúc thực sự của phân tử là một chuỗi xoắn kép và đặt nền móng cho James Watson và Francis Crick cho rằng cấu trúc của DNA là một polyme chuỗi xoắn kép. Cuối cùng, họ đã nhận được giải thưởng Nobel cho nghiên cứu của mình cùng với Maurice Wilkins, một đồng nghiệp của Rosalind. Sự tham gia của Franklin vào nghiên cứu DNA đã bị dừng lại do bà qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1958. Nhưng đồng nghiệp của bà, Aaron Klug, vẫn tiếp tục nghiên cứu và cuối cùng đã giành được giải Nobel Hóa học năm 1982.

5. Vật chất tối: Vera Rubin

Nhung phat minh cua phu nu da gop phan thay doi the gioi-Hinh-6

Vera Rubin là nhà vật lý thiên văn đã xác nhận sự tồn tại của vật chất tối. Khám phá của cô là một trong những bước đột phá quan trọng nhất trong thiên văn học, giải thích nhiều quan sát đã làm đau đầu các nhà khoa học trong nhiều thập kỷ. Bà đã làm việc với nhà thiên văn học Kent Ford vào những năm 60 và 70, khi họ khám phá ra lý do đằng sau chuyển động của các ngôi sao bên ngoài thiên hà. Được mệnh danh là “báu vật quốc gia” nhưng Rubin chưa bao giờ được trao giải Nobel vì giới tính của mình.

Tranh cãi đằng sau phát minh điện thoại đầu tiên trên thế giới

Ai đã phát minh ra điện thoại? Câu trả lời phổ biến được dạy ở trường học đương nhiên là Alexander Graham Bell. Nhưng liệu sự thật có phải như vậy?

Được sinh ra vào ngày 3/3/1847 tại Edinburgh, Scotland, Alexander Graham Bell lớn lên xung quanh một môi trường được bao bọc bởi gia đình cùng những người quen bị khiếm thính hoặc gặp vấn đề về thính giác. Cha của ông là Alexander Melville Bell, một giáo viên dạy diễn thuyết trước công chúng, và mẹ của ông là Eliza Grace Symonds Bell, một nghệ sĩ piano tài năng.

Em dâu tương lai đang lừa dối cả nhà tôi

Tuyền tái mặt, lắp bắp rồi quỳ sụp xuống chân tôi cầu xin đừng nói chuyện này cho Dương biết.

Tối hôm kia, nhà tôi có cỗ nên đã mời Tuyền là em dâu tương lai đến ăn. Vì nhà có đông người nên khi em ấy đến chơi, tôi bảo cất túi xách trong phòng ngủ của cháu, kẻo để ngoài đồ đạc lại thất lạc.

Lúc mọi người ăn uống xong và ra về cả, tôi lên phòng con lấy đồ giúp Tuyền. Tôi hoảng hốt khi thấy con đang lấy phấn son của Tuyền tô đầy trên mặt. Đồ đạc của em ấy bị con tôi ném tung tóe trên sàn nhà. Đang lúc tức giận định phạt con gái thì tôi giật mình thấy có 4 tấm băng vệ sinh ở gần chiếc túi xách của em dâu tương lai.

Bí mật lộ ra từ mỏ vàng bỏ hoang ở Mỹ: Hơn 200 người đang săn

Thứ đó là gì?

Sâu dưới lòng đất khoảng 1 dặm (1.609 mét) của một mỏ vàng bỏ hoang thuộc khu vực tiểu bang Nam Dakota, Mỹ là một dự án hàng chục triệu USD được hàng trăm nhà khoa học quốc tế dồn nhiều tâm huyết để xây dựng.

Tiêu tốn 55 triệu USD, dự án này được dùng để săn tìm một trong những thứ bí ẩn nhất vũ trụ: Vật chất tối, thông tin từ Đại học Wisconsin (Mỹ).

Theo các nhà khoa học, vật chất tối được cho là chiếm 85% tổng số vật chất trong vũ trụ, nhưng chưa ai chứng minh được sự tồn tại của nó. Vậy, bài toán này cần giải quyết ra sao?

MÁY DÒ VẬT CHẤT TỐI SIÊU NHẠY RA ĐỜI

Sau nhiều thập kỷ săn lùng các hạt vật chất tối bí ẩn không thành công, các nhà nghiên cứu đã tiến hành chế tạo ngày càng nhiều máy dò vật chất tối nhạy hơn. Kết quả, sau một đợt chạy thử nghiệm kéo dài 3,5 tháng và kết thúc vào tháng 4/2022, Trái Đất đã có công trình săn tìm vật chất tối siêu nhạy, tốt nhất tính cho đến thời điểm hiện nay.

Cụ thể, một nhóm gồm hơn 200 nhà khoa học quốc tế đang làm việc tại Cơ sở Nghiên cứu Ngầm Sanford ở Lead, tiểu bang Nam Dakota, nơi họ đã xây dựng một máy dò vật chất tối khổng lồ có tên LUX-ZEPLIN (LZ) sâu bên dưới mặt đất, tại môt mỏ vàng bỏ hoang.

Chiếc máy săn vật chất tối LUX-ZEPLIN này gần đây đã cung cấp những điểm dữ liệu đầu tiên, được các nhà khoa học công bố ngày 7/7/2022.

Bi mat lo ra tu mo vang bo hoang o My: Hon 200 nguoi dang san

Các nhà khoa học lắp đặt một phiên bản thu nhỏ của máy dò vật chất tối LUX-ZEPLIN. Ảnh: PHÒNG THÍ NGHIỆM GIA TỐC QUỐC GIA SLAC

LUX-ZEPLIN là một máy dò vật chất tối thế hệ tiếp theo, được Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) chọn là một trong ba máy dò vật chất tối 'G2' (cho Thế hệ 2).

Frank Wolfs, Giáo sư vật lý và thiên văn học tại trường Đại học Rochester (Mỹ), người đang giám sát nỗ lực của trường Rochester trong dự án LUX-ZEPLIN, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy vật chất tối nào, nhưng kết quả đầu tiên của LUX-ZEPLIN cho thấy nó hiện là máy dò vật chất tối nhạy nhất trên thế giới".

NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA LUX-ZEPLIN

Máy dò LUX-ZEPLIN được thiết lập giống như một chiếc chuông hình trụ khổng lồ có khả năng rung lên để phản ứng lại tiếng va chạm nhẹ nhất từ một hạt vật chất tối.

Cỗ máy dò vật chất tối siêu nhạy LUX-ZEPLIN bao gồm một bể titan khổng lồ chứa đầy 10 tấn xenon lỏng cực kỳ tinh khiết. [Xenon là một loại khí nặng và cực hiếm, nó nặng hơn không khí 4,5 lần và không màu, không mùi, không vị, theo dữ liệu của Britannica].

Nếu một hạt vật chất tối chạy vào nguyên tử xenon, xenon sẽ va chạm với các nguyên tử bên cạnh của nó, tạo ra một chùm tia cực tím và giải phóng các electron.

Một lúc sau, các điện tử tự do sẽ kích thích khí xenon ở trên cùng của buồng và giải phóng một chùm ánh sáng thứ hai, sáng hơn. Hơn 500 ống nhân quang sẽ theo dõi những tín hiệu này, chúng cùng nhau có thể phân biệt giữa các hạt gây ô nhiễm và các va chạm vật chất tối thực sự.

Bi mat lo ra tu mo vang bo hoang o My: Hon 200 nguoi dang san-Hinh-2

Toàn bộ công trình săn tìm vật chất tối của dự án LUX-ZEPLIN đặt ở bên dưới lòng đất, cách mặt đất hơn 1.600 mét.. Ảnh: Greg Stewart / Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia SLAC

Để che chắn xenon khỏi các hạt và bức xạ mà chúng ta biết không đến từ vật chất tối, máy dò được bao quanh bởi một bể nước tinh khiết khổng lồ. Và toàn bộ công trình này được chôn sâu 1.609 mét dưới lòng đất trong một mỏ vàng bỏ hoang ở Mỹ.

"Trung tâm của máy dò LUX-ZEPLIN là nơi tinh khiết nhất trên Trái Đất, thậm chí có thể là tinh khiết nhất trong Hệ Mặt Trời. Bởi thực tế là không có khối lượng không gian nào khác trong vũ trụ hoặc trên hành tinh này không có bức xạ và bụi. Do đó, chúng tôi phải chôn sâu máy dò này xuống lòng đất, 'cách ly' nó bằng bể nước tinh khiết để nó yên tâm thực hiện nhiệm vụ săn tìm vật chất bí ẩn bậc nhất vũ trụ" - Thành viên nhóm LUX-ZEPLIN, Chamkaur Ghag tại Đại học College London (Anh) cho biết.

HÀNH TRÌNH SĂN TÌM NHỮNG BÍ ẨN CỦA VŨ TRỤ

Chính xác thì vật chất tối là gì? Chất vô hình chiếm 85% tổng số vật chất trong vũ trụ nhưng không thể nhìn thấy ngay cả với các công cụ khoa học tiên tiến nhất của chúng ta?

Lý thuyết về vật chất tối [ban đầu có tên là 'vật chất thiếu'] được hình thành vào năm 1930, khi các nhà thiên văn học nghiên cứu sự quay của các thiên hà xa xôi trong Quần tụ thiên hà Coma, họ nhận thấy rằng không có đủ vật chất - các ngôi sao, hành tinh, khí nóng - để giữ các thiên hà lại với nhau thông qua lực hấp dẫn. Phải có một khối lượng phụ nào đó giúp kết dính tất cả các vật chất hữu hình lại với nhau, nhưng nó không thể nhìn thấy được, không thể nhìn thấy được.

Các nhà khoa học tin rằng vật chất tối bao gồm khối lượng bị thiếu đó, đóng góp một đối trọng hấp dẫn mạnh mẽ giúp các thiên hà không bay xa nhau.

Nhiều thập kỷ sau vào những năm 1970, các nhà thiên văn học người Mỹ Vera Rubin và Kent Ford đã tìm thấy những điểm bất thường trong quỹ đạo của các ngôi sao trong các thiên hà.

Khám phá này đã làm dấy lên một giả thuyết trong cộng đồng khoa học rằng sự dị thường là do khối lượng 'vật chất tối' không nhìn thấy được, nằm trong và xung quanh các thiên hà.

Nhưng, kể từ đó vật chất tối vẫn chỉ là một lý thuyết.

Hầu hết các nhà khoa học tin rằng vật chất tối được làm từ các hạt ma quái hiếm khi va chạm vào môi trường xung quanh. Đó là lý do tại sao hàng tỷ hạt vật chất tối có thể lướt qua cơ thể chúng ta mỗi giây mà chúng ta không hề nhận ra. Các ứng cử viên hàng đầu cho các hạt vật chất tối là WIMP, hoặc các hạt khối lượng tương tác yếu. Chúng là các hạt thường đi qua vật chất bình thường mà không bị phát hiện.

Cấu trúc của vũ trụ ngày nay, bao gồm vô số cụm thiên hà và hàng tỷ thiên hà, đòi hỏi vật chất tối này phải được kết khối mạnh mẽ và không thể di chuyển quá nhanh vào thời điểm những cấu trúc này được hình thành. Đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm các hạt nặng chưa được biết đến trong nhiều thập kỷ, được gọi là WIMP.

Nếu những hạt này thực sự tồn tại, chúng sẽ chỉ tương tác với vật chất rất yếu, ngoại trừ lực hấp dẫn. Mặc dù chúng sẽ hình thành ở nhiệt độ cao ngay sau vụ nổ Big Bang, nhưng với sự mở rộng của vũ trụ, chúng sẽ nguội đi nhiều đến mức đủ chậm để hình thành cấu trúc. Tuy nhiên, vật chất tối có thể là những hạt khác, nhẹ hơn nhiều.

Điều hấp dẫn về các khả năng khác nhau của các hạt vật chất tối là sự tồn tại của chúng sẽ giải quyết đồng thời một câu đố quan trọng khác của vật lý hạt. Các trục sẽ giải thích một đối xứng hạt-phản hạt vẫn chưa được hiểu nhưng đã được quan sát bằng thực nghiệm.

Bi mat lo ra tu mo vang bo hoang o My: Hon 200 nguoi dang san-Hinh-3

Việc giải các câu đố phổ biến về vũ trụ học, các hạt vật chất tối và khối lượng của neutrino bằng các thí nghiệm nhạy cảm đòi hỏi tiến bộ công nghệ liên tục và đặc biệt. Ảnh: M Zacher / Innovationnewsnetwork

Nhóm hơn 200 các nhà nghiên cứu làm việc ở tiểu bang Nam Dakota chỉ là một trong số rất nhiều nhóm các nhà khoa học trên thế giới hy vọng trở thành những người đầu tiên chứng minh vật chất tối tồn tại.

Theo lý thuyết, vật chất tối là một chất giả định được cho là chiếm khoảng 85% vũ trụ. Vật chất bí ẩn không nhìn thấy được vì nó không phản chiếu ánh sáng, và chưa bao giờ được các nhà khoa học quan sát trực tiếp.

Các nhà thiên văn học biết nó có thể tồn tại ở ngoài vũ trụ vì tác động hấp dẫn của nó đối với vật chất đã biết.

Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) cho biết: "Hãy chiếu một ngọn đuốc trong một căn phòng tối hoàn toàn, và bạn sẽ chỉ thấy những gì ngọn đuốc chiếu sáng. Điều đó không có nghĩa là không gian xung quanh bạn không tồn tại. Tương tự như vậy, chúng ta biết vật chất tối tồn tại nhưng chưa bao giờ quan sát nó trực tiếp".

Theo các nhà khoa học, vật chất này được cho là 'chất keo' hấp dẫn giữ các thiên hà lại với nhau ở khoảng cách hợp lý. Cho đến nay, chỉ có 5% vũ trụ quan sát được bao gồm các vật chất đã biết như nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử.

Bên cạnh vật chất tối, thì neutrino cũng là bí ẩn của vũ trụ. Chúng là một hạt hạ nguyên tử rất giống với electron, nhưng không có điện tích và khối lượng rất nhỏ, thậm chí có thể bằng không. Neutrino là một trong những hạt phong phú nhất trong vũ trụ. Tuy nhiên, vì chúng có rất ít tương tác với vật chất nên chúng cực kỳ khó phát hiện.

Theo thực nghiệm, việc tìm kiếm vật chất tối và tìm kiếm khối lượng neutrino đang phải đối mặt với những thách thức tương tự.

Theo Scientificamerican, để phát hiện neutrino, cần phải có các máy dò rất lớn và siêu nhạy. Thông thường, một hạt neutrino năng lượng thấp sẽ di chuyển qua nhiều năm ánh sáng của vật chất bình thường trước khi tương tác với bất cứ thứ gì. Do đó, tất cả các thí nghiệm neutrino trên mặt đất đều dựa vào việc đo lường phần nhỏ neutrino tương tác trong các máy dò có kích thước hợp lý.

Wolfgang Pauli - Nhà vật lý lý thuyết người Áo và là một trong những nhà tiên phong của vật lý lượng tử - là người lần đầu tiên công nhận sự tồn tại của neutrino vào năm 1930.

Đọc nhiều nhất

Tin mới