|
Chùa Phúc Thắng ở Song Lãng – nơi ghi nhiều dấu ấn Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm. |
Việc phân định cao – thấp chỉ có thể dựa vào ý trời bằng cách “tung quyển thi” vào một vòng tròn.
Khoa thi Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499) đời vua Lê Hiến Tông được xem là khó phân định nhất triều nhà Lê. Nhưng cuối cùng, nhờ vào cách tung quyển thi vào ô vòng tròn mà Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên, Lương Đắc Bằng đỗ Bảng nhãn.
Nhân tài mồ côi
Sách “An Nam cửu kinh long” của Cao Biền vào thế kỷ 8 đã viết về thế đất: “Ngũ mã đồng quần/ Thất tinh ủng hậu/ Chiểu Lãng, Ba Đậu/ Địa phát khôi khoa” (Năm con ngựa cùng bày/ Chòm thất tinh nâng đỡ phía sau/ Chiểu Lãng, Ba Đậu/ Đất phát người đỗ đạt).
Tiên đoán của Cao Biền phần nào được xem là chính xác khi mạch khoa danh của vùng đất Ngoại Lãng xưa (Song Lãng nay) và các làng phụ cận thuộc hương Mần Để nhiều phần rạng rỡ.
Sự học ở hương Mần Để xưa có lẽ được tính từ Đỗ Đô (1042 - 1170), tức Đạt Mạn thiền sư. Theo sử sách, ông theo cha mẹ về sống ở làng Ngoại Lãng (nay thuộc xã Song Lãng). Cùng với vua Lý Anh Tông, Đỗ Đô là thiền sư thuộc thế hệ thứ ba của thiền phái Thảo Đường.
Năm 1066 triều Lý Thánh Tông, Đỗ Đô được cử sang Trung Hoa tham dự khoa thi Bạch Liên của nhà Tống (khoa thi Tiến sĩ về Phật học), và đỗ Trạng nguyên. Trở về nước, Đỗ Đô được vua Thánh Tông cử làm quan văn tới chức Vệ Đại phu và ban pháp hiệu là Đạt Mạn. Về sau Đỗ Đô xin vua xây dựng và tu hành tại chùa Phúc Thắng tại quê nhà Ngoại Lãng.
Kể từ thế kỷ 15 về sau, sự học nơi đây càng mạnh mẽ hơn, tiêu biểu là sự góp mặt của hai anh em nhà khoa bảng họ Đỗ là Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm khoa Kỷ Mùi (1499), và Hội nguyên Tiến sĩ Đỗ Lý Oánh khoa Mậu Thìn (1508).
Theo “Từ điển địa chí huyện Vũ Thư”, Đỗ Lý Khiêm (chưa rõ năm sinh, mất năm 1512) là người làng Ngoại Lãng, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ, nay là xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Tương truyền, cha mẹ ông sinh được hai người con trai, Đỗ Lý Khiêm là anh, Đỗ Lý Oánh là em. Cha mất sớm, ba mẹ con Đỗ Lý Khiêm phải sống nhờ ở quán nước ven đường nhưng cả hai anh em đều chăm học, sáng dạ, hiếu thảo nên được nhiều người giúp đỡ.
Năm 1499 triều đình nhà Lê mở khoa thi, vua Lê Hiến Tông cần người hiền tài giúp trị quốc nên ra chỉ dụ. Việc này, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh.
Khoa mục là con đường chính của người làm quan, đường chính mở thì chân nho mới xuất hiện. Cho nên ngày xưa dùng khoa lấy người tài giỏi phải đặt quy chế chia vị cho nghiêm, phải định thể lên dán tên cho chặt, có lệnh cấm bảo nghĩa cho nhau, đổi sách cho nhau, cốt để ngăn ngừa mầm gian, thu nhiều người giỏi, để cung cấp cho nhu cầu dùng người vô cùng của thiên hạ.
Phép chọn kẻ sĩ của tổ tông ta bắt chước đời xưa mà làm, đến nay quy mô rộng lớn, đã rất kỹ lại đầy đủ. Song phép lập đã từ lâu, tệ xấu theo đó mà nảy sinh, kẻ tầm thường thì lạm vào hàng thi đỗ, người thực học thì bị gạt ra ngoài vòng, lời bàn tán xôn xao, lòng học trò chưa thỏa.
Trẫm giữ cơ nghiệp lớn, rạng tỏ đạo công, sùng chuộng lòng thành, muốn văn hồi phong tục thuần phác, ngăn cấm lề thói phù hoa, mong trừ bỏ thói tệ kiêu bạc. Để cho bậc hiền triết nối gót bước lên, việc phòng giữ phải đặt ra minh bạch”.
Đỗ Lý Khiêm tham gia ứng thí. Khoa thi này còn có một nhân tài lừng lẫy, đó là Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa), cũng nổi tiếng là thần đồng từ bé và là thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Vượt qua các cuộc thi Hương, thi Hội, 55 sĩ tử trong đó có cả Lương Đắc Bằng và Đỗ Lý Khiêm bước vào kỳ thi cuối cùng là thi Đình. Khi các quan chủ khảo chấm bài thì thấy có 2 bài rất nổi trội, là 2 bài của Lương Đắc Bằng và Đỗ Lý Khiêm. Vì khoa thi chỉ chọn 1 Trạng nguyên nên các quan chấm bài rất kỹ lưỡng, nhưng cả 2 bài văn sách đều có văn tài hay như nhau, không thể xác định được bài nào vượt trội hơn.