Cách nhận biết bánh chưng luộc bằng pin độc hại

Để rút ngắn thời gian luộc và làm cho bánh có màu sắc bắt mắt hơn, người ta thường luộc bánh chưng bằng pin thay vì luộc theo cách truyền thống.

Đáp ứng nhu cầu đó, thị trường bánh chưng cũng ngày càng nở rộ từ những cá nhân nhỏ lẻ cho đến những cơ sở làm bánh lớn. Có một thực tế là để rút ngắn thời gian luộc và làm cho bánh có màu sắc bắt mắt hơn, người ta thường luộc bánh chưng bằng pin thay vì luộc theo cách truyền thống mất chục tiếng đồng hồ.
Tuy nhiên, luộc bánh chưng bằng pin để lại những nguy hại tiềm ẩncho người sử dụng. Bởi lẽ các kim loại nặng chứa trong pin như thủy ngân, thạch tín, chì… đều là những chất cực độc, gây nguy hiểm cho não, tim mạch, thận và ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh sản.
Cach nhan biet banh chung luoc bang pin doc hai
Ảnh minh họa. 
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, nếu bạn nhiễm độc chì ở mức độ nặng có thể dẫn đến tình trạng tăng huyết áp, vô sinh và sảy thai. Chưa kể các hóa chất độc hại khác chứa trong pin nếu tích tụ lâu ngày trong cơ thể với nồng độ lớn có thể dẫn đến bị tử vong.
Về vỏ lá bên ngoài: Nếu vỏ lá bên ngoài có màu ánh tím hoặc màu xanh mướt thì nhiều khả năng đó là bánh chưng luộc bằng pin. Còn đối với bánh chưng luộc theo phương pháp truyền thống, thời gian luộc khoảng tầm 8 - 10 giờ, lá thường ngả màu, hơi vàng và không thể xanh mướt được.
Về vỏ bánh chưng: Với bánh chưng luộc bằng pin, vỏ bánh xanh rờn, nếp trong, bắt mắt hơn. Đối với bánh chưng luộc bình thường, vỏ bánh màu xanh nhạt hơn hoặc ngả thành màu hơi vàng. Nếp không được trong như bánh chưng luộc bằng pin.
Về nhân bên trong: Bánh chưng luộc bằng pin không được dền, vì ép chín nhanh nên không được dẻo, thơm mùi vị đặc trưng giống như bánh chưng luộc thông thường.
Bên cạnh những cách nhận biếtkể trên, trước khi mua, bạn nên kiểm tra thật kĩ vỏ bánh. Nếu vỏ bánh có chút đen, cầm lên không chắc chắn thì có khả năng da nấu chín quá nhanh bằng pin độc hại.
Để tránh mua phải bánh chưng luộc bằng pin bạn nên lựa chọn địa chỉ bán bánh uy tín, có thương hiệu hay mua tại những cửa hàng, siêu thị lớn. Nếu có điều kiện thì bạn nên tự gói bánh tại nhà vừa tạo không khí Tết đầm ấm vừa đảm bảo bánh chưng sạch, được luộc theo phương pháp truyền thống.
Bánh chưng muốn bảo quản được lâu thì bạn nên để ở chỗ thoáng mát, không bị ẩm, bụi bẩn để tránh bánh bị ôi thiu, mốc nhanh. Tùy theo điều kiện thời tiết, bạn cần bảo quản cho phù hợp.

Cách gói bánh chưng đơn giản cho ngày Tết

Nhân dịp Tết nguyên đán 2016 sắp tới, chúng tôi xin hướng dẫn cách gói bánh chưng đơn giản, đẹp hấp dẫn cho mâm cỗ ngày Tết!

Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.

Chết ngất món ăn ngon được làm từ… đồ ăn thừa cho lợn

Những đồ thừa trong mâm cơm ngày Tết như xương, thịt lợn, gà, cá, nước canh... đều được cho vào chum để chế thành một món ăn khoái khẩu kinh dị.

Món ăn khoái khẩu lạ lùng và không thể thiếu sau mỗi dịp Tết ấy được người Mường gọi là "nước giút".

Đặc sản từ “cơm thừa canh cặn”

Ngày tết, vợ chồng anh Quách Văn Giám (xã Xuân Phúc, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa) bàn nhau hạ cái chân giò, pha cái thủ lợn, chặn nốt nửa con gà trong tủ lạnh ra để đãi khách.

Khách thì chỉ có ba người nhưng thức ăn thì làm rất nhiều. Trước sự hiếu khách của vợ chồng anh Giám, khách cũng không lấy làm câu nệ.

Những thức ăn còn lại trên mâm cùng với xương không thể ăn, vợ anh Giám cho vào một cái bát to. Lúc này anh Giám mới cất tiếng: “Chú là người Kinh. Chú không biết người Mường bọn anh có một món đặc sản, đấy là nước giút.

Những thứ anh chị vừa để riêng ra bát mà chú thấy chính là nguyên liệu cho món nước giút. Người ta hay trêu rằng đó là thứ ăn thừa trên mâm, đúng là thừa, nhưng rất sạch sẽ và an toàn”.

Anh Giám cho biết, bản thân anh cũng như tất cả người dân xứ Mường vẫn chưa có ai cắt nghĩa được tại sao người ta gọi món ăn lạ lùng và có phần kinh dị đó là nước giút.

Nhưng, đó thứ nước mà nhiều người hãy còn cảm thấy nước miếng đang dâng lên mỗi khi nghĩ đến cái vị ngọt, vị chua, cay, mặn của nó.

Không chỉ có gia đình anh Giám, với người Mường, món nước giút đã là một đặc sản và để làm được món này thì quả là một nghệ thuật.

Chet ngat mon an ngon duoc lam tu… do an thua cho lon
Bà Thu và món đặc sản được làm từ thức ăn thừa. 

Món ăn khiến nhiều người… hoảng hồn

Ở xứ Mường Xuân Phúc, người làm món giút có tiếng phải kể đến nhà ông Lê Văn Hội, nhà bà Trương Thị Thu.

Bà Thu tự tin vào đôi tay khéo léo của mình, bà bảo: “Để làm nước giút, người ta lấy tất tần tật những cái gì còn thừa thải trong mâm cơm tức thứ mà người ta không ăn nữa như các loại xương, gồm xương lợn, gà, cá, các loại rau, miến, mì tôm, nước canh... cho vào chum.

Sau đó đổ nước luộc bánh chưng vào, cũng có thể bỏ thêm một cái bánh chưng, hoặc nước vo gạo nếp vào cho nhanh chua.

Và quan trọng nữa là người ta lên rừng chặt cây chuối, chỉ chuối rừng mới ngon mà phải là chuối bánh tẻ, về thái mỏng, bỏ vào nồi luộc sơ qua rồi đưa vào chum. Cùng với đó là muối trắng mà phải là muối hạt to mới làm được.

Cuối cùng, bỏ mấy lá đinh lăng lên trên rồi buộc kín, đậy nắp lại. Để món này được ngon thì tốt nhất là phải có chum gốm non, nếu không nước sẽ không được thơm, ngon.

Cũng lưu ý rằng, khoảng 11g giờ hàng đêm, nên mang chum ra mở nắp cho sương bay vào đến khoảng 4 giờ sáng lại đậy nắp lại.

Để khoảng 2-3 tháng sau khi xương và các thứ bên trong mềm, ngấu, chua là ăn được, loại này ăn thay mẻ và đặc biệt là không bao giờ xảy ra hiện tượng đau bụng”.

Để minh chứng cho thứ đặc sản của dân tộc mình, bà Thu dẫn chúng tôi xuống bếp. Trong góc bếp là xô to màu trắng, được đậy nắp rất cẩn thận.

Bà bảo, đây chính là xô nước giút. Vì cái chum mới vỡ nên phải để tạm ở xô, hết Tết là phải thay ngay bằng chum kẻo mất ngon.

“Loại này là phải có chum y như mắm tép, nước tương vậy”, nói rồi bà cho người khiêng xô nước ra sân cho khách được nhìn rõ hơn.

Bà Thu mở nắp, con cháu vây quanh. Có thể nói vì mới làm nên trông xô nước chưa được ngon cho lắm trong mắt người lạ.

Một số người thành phố trông thấy cũng lại xem. Có người tò mò, có người thấy khó ngửi mùi nên lui về phía sau. Dù đã được giới thiệu, đã mường tượng ra trước nhưng vẫn người không tin rằng món này là món ăn truyền thống.

Ngược lại, với những người Mường, họ chủ động cầm muôi và khoắng lên, đưa lên miệng nếm, chép chép miệng rồi tấm tắc khen ngợi cho cái món ăn độc đáo của mình sắp thành công.

Của để dành khi giáp hạt

Ngắm nghía mãi món giút, một cao niên bảo: “Ngày tết ăn thịt vào nhiều ngấy lắm rồi, trong khi đó tháng ba ngày tám lại không có gì ăn.

Không biết nơi khác như thế nào chứ vùng này xưa kia ngoài cấy lúa còn dựa vào rừng làm nương, ngày nay rừng không cho khai thác, ngoài làm ruộng không biết làm gì nên ra giêng đói kém lắm.

Những nhà không có điều kiện thì ngoài gạo ra chuyện thức ăn cũng là một vấn đề. Nếu có nước giút lại chẳng lo mấy. Có nước giút thì một bát đặt giữa mâm với một nồi cơm cũng có thể xong bữa.

Cũng theo cao niên này thì từ thời người Mường còn quan lang, người dân phải làm thịt trâu bò, tất cả những gì ăn được đều phải dâng hiến cho quan hết. Những thứ xương xẩu lặt vặt không ăn được quan không lấy.

Bỏ công bỏ sức mà không được ăn, đói, có người rớt nước mắt, xót xa, cúi nhặt những gì còn xót lại mang về luộc lên nhưng không nỡ ăn mà phải để dành, nhưng để bảo quản tốt người ta cho vào chum vừa kín lại vừa sạch.

Nhiều lần như vậy thành ra số xương xẩu đó lên men và mềm ra. Người ta lấy ra ăn thử thấy ngon nên truyền tai nhau mà làm.

Trải qua thời gian, người ta thêm những thứ khác vào và trở thành món ăn lưu truyền trong người Mường. Ngày nay người ta chỉ làm vào dịp tết là bởi tết nhiều thức ăn dư thừa.

Không chỉ xứ Mường Xuân Phúc mới có món giút. Những nơi có người Mường như Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An cũng có món này, nhưng được gọi dưới những cái tên khác nhau.

Từ món giút, tôi lại nhớ đến món ăn dấm trạo của người Tày vùng Yên Bái. Với món trạo, người ta bỏ cả thịt lẫn xương cùng gạo nấu lên y như một nồi cháo loãng. Sau đó cất đi, khoảng nửa năm sau thì lấy ra ăn.

Những thứ hỗn tạp đó tạo thành một thứ nước chua thanh mát. Dùng nấu ăn vào mùa hè thay cho mẻ.

Tránh xa người nặng vía

Trở lại món nước giút của người Mường, bà Thu kể: “Ngày nay, ít đói hơn nên việc làm nước giút cũng được chú trọng hơn. Nguyên liệu làm nước giút là những thứ sạch sẽ”.

Cũng theo bà Thu thì không phải ai cũng làm được món đặc sản này. Như muối cà muối dưa hay làm tương vậy, người nặng vía làm sẽ bị hôi, thối hoặc sẽ có giòi bò lúc nhúc trong chum.

Với bà Thu, bà là được người đã khuất truyền lại cho nhiều bài thuốc thổi và nhiều lời chú cũng như bí quyết làm giút.

Khi làm giút, bà luôn áp dụng công thức đó cùng với việc đọc lời chú mang đại ý là cho món giút luôn ngon chứ không bị vía. Dù có nâng đi nâng lại, mở ra đậy vào nhiều lần cũng không bị hỏng.

Bà Thu bảo, gần 70 tuổi, bà có thâm niên làm nước giút cũng trên dưới 60 năm nhưng chưa một lần hỏng.

Tháng Ba hàng năm, ấy là khu chum giút chín ngấu. Và, theo như lời bà Thu thì khi ấy nhiều người ở quanh xóm tìm đến nhà bà để xin những bát nước giút truyền thống.

“Mình làm ngon thì họ mới xin chứ. Giống như người dưới xuôi xin nhau bát cà, bát dưa thôi mà”, bà Thu xuề xòa chia sẻ.

Đọc nhiều nhất

Tin mới

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Trong Đông y, quả sung có tính bình, vị ngọt giúp kiện tỳ thanh tràng (kích thích tiêu hóa, làm sạch ruột), giải độc, tiêu thũng, thường được dùng để chữa các bệnh về tiêu hóa, kiết lỵ, viêm ruột, táo bón, trĩ.