Ung thư vú dễ di căn phổi

(Kiến Thức) - Di căn phổi là vị trí thường gặp của ung thư vú và ngoài khối u phổi, di căn còn gây tràn dịch màng phổi ác tính. Việc chẩn đoán phân biệt u nguyên phát và di căn rất khó khăn.

Bệnh nhân ung thư vú thường bị tràn dịch màng phổi do các tổn thương di căn.
Bệnh nhân ung thư vú thường bị tràn dịch màng phổi do các tổn thương di căn. 
Di căn phổi là vị trí thường gặp của ung thư vú di căn, đứng hàng thứ hai sau di căn xương. Các tổn thương di căn khác trong lồng ngực là di căn màng phổi, trung thất và hạch vú trong. Tổn thương di căn phổi thường là khối u đặc, dưới 3cm ở vùng ngoại vi của phổi. Các di căn này thường không có triệu chứng và thường được xác định nhờ chụp X-quang. X-quang có thể phát hiện các tổn thương nhỏ vùng ngoại vi từ 2 - 3mm và phân biệt với các tổn thương lành tính. 
Các di căn thể đặc của phổi thường không đi kèm xẹp phổi hoặc hạch rốn phổi. Các tổn thương mới có vẻ giống như viêm phổi. Đặc biệt, trong các khối u nguyên phát ở phổi của nữ giới, thể ung thư biểu mô tuyến chiếm 60 - 70%. Trong khi đó, 80% tổn thương di căn phổi cũng là ung thư biểu mô tuyến, nên chẩn đoán phân biệt giữa ung thư biểu mô tuyến nguyên phát ở phổi và di căn của ung thư vú rất khó khăn. 
Vì vậy, các bệnh nhân có tiền sử ung thư vú và có tổn thương nghi ngờ ở phổi cần có chẩn đoán mô bệnh học để loại trừ các bệnh lành tính và u nguyên phát của phổi. Tùy theo tình trạng bệnh mà hóa trị, xạ trị hoặc phẫu thuật.
Ngoài ra, bệnh nhân ung thư vú thường bị tràn dịch màng phổi do các tổn thương di căn làm tăng tiết dịch vào khoang màng phổi và ngăn cản sự hấp thu dịch trở lại hệ tĩnh mạch. Tràn dịch màng phổi có thể cùng bên hoặc đối bên với tổn thương vú nguyên phát và điều này có thể gợi ý về cơ chế tràn dịch. Tràn dịch đối bên thường do di căn đường máu, trong khi tràn dịch cùng bên có thể do lan tràn đường máu hoặc do xâm lấn trực tiếp từ khối u qua thành ngực hoặc tái phát. 
Tràn dịch màng phổi gây nên khó thở, ho và đau ngực. Tràn dịch màng phổi do di căn màng phổi, cần điều trị toàn thân bằng hóa trị hoặc nội tiết, có hiệu quả làm giảm sự tràn dịch. Nhìn chung ở bệnh nhân mới có di căn, tỷ lệ đáp ứng của hóa trị khoảng 10 - 40%. Điều trị nội tiết có đáp ứng 70% các bệnh nhân có thụ cảm nội tiết dương tính. Điều trị tại chỗ gồm: Chọc hút màng phổi, dẫn lưu màng phổi và làm xơ hóa hoặc mở màng phổi. Bơm hóa chất màng phổi có thể hy vọng tiêu diệt tổn thương và làm giảm tiết dịch màng phổi. 

10 tiết lộ gây sốc về ung thư vú

(Kiến Thức) - Những nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học tiết lộ những thông tin gây sốc về căn bệnh ung thư vú nguy hiếm này ngày càng thu hút nhiều người quan tâm.

Một nghiên cứu do các chuyên gia ở ĐH Washington, Mỹ (WU) thực hiện phát hiện 4 loại ung thư vú mang tính di truyền. Phát hiện trên dựa vào nghiên cứu khối u ở 825 bệnh nhân và được xem là nghiên cứu đầu tiên kiểu này có trên thế giới hiện nay.
Một nghiên cứu do các chuyên gia ở ĐH Washington, Mỹ (WU) thực hiện phát hiện 4 loại ung thư vú mang tính di truyền. Phát hiện trên dựa vào nghiên cứu khối u ở 825 bệnh nhân và được xem là nghiên cứu đầu tiên kiểu này có trên thế giới hiện nay.
Các nhà nghiên cứu thuộc Hiệp hội Ung thư Mỹ cảnh báo, ung thư vú ở nam cướp nhiều tính mạng hơn ở nữ, lý do vì nam giới thường không nhận thức rõ về căn bệnh cũng như chậm phát hiện những dấu hiệu của bệnh. Theo nghiên cứu, các khối u ngực của nam giới được chẩn đoán thường lớn hơn, phát triển nhanh hơn và di căn nhanh hơn các bộ phận khác của cơ thể bị chẩn đoán ung thư.
Các nhà nghiên cứu thuộc Hiệp hội Ung thư Mỹ cảnh báo, ung thư vú ở nam cướp nhiều tính mạng hơn ở nữ, lý do vì nam giới thường không nhận thức rõ về căn bệnh cũng như chậm phát hiện những dấu hiệu của bệnh. Theo nghiên cứu, các khối u ngực của nam giới được chẩn đoán thường lớn hơn, phát triển nhanh hơn và di căn nhanh hơn các bộ phận khác của cơ thể bị chẩn đoán ung thư.
Ở phụ nữ sau mãn kinh, phơi nhiễm cadmium từ chế độ ăn có liên quan với tăng nguy cơ ung thư vú. Cadmium có thể có trong bánh mỳ, ngũ cốc, khoai tây, rau... So với những người có lượng cadmium trong chế độ ăn thấp nhất thì những phụ nữ đã mãn kinh phơi nhiễm cadmium nhiều nhất từ chế độ ăn dễ bị ung thư vú hơn 21%, sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu khác.
Ở phụ nữ sau mãn kinh, phơi nhiễm cadmium từ chế độ ăn có liên quan với tăng nguy cơ ung thư vú. Cadmium có thể có trong bánh mỳ, ngũ cốc, khoai tây, rau... So với những người có lượng cadmium trong chế độ ăn thấp nhất thì những phụ nữ đã mãn kinh phơi nhiễm cadmium nhiều nhất từ chế độ ăn dễ bị ung thư vú hơn 21%, sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu khác.
Một nghiên cứu gần đây trên 412 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú cho thấy thiếu ngủ (ít hơn hoặc bằng 6 giờ một đêm) có liên quan đến việc dễ bị ung thư vú hơn và nguy cơ tái phát cao. Các chuyên gia kết luận: "Tăng thời gian và cải thiện chất lượng giấc ngủ có thể là con đường đúng để giảm nguy cơ phát triển cũng như tái phát ung thư vú".
Một nghiên cứu gần đây trên 412 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú cho thấy thiếu ngủ (ít hơn hoặc bằng 6 giờ một đêm) có liên quan đến việc dễ bị ung thư vú hơn và nguy cơ tái phát cao. Các chuyên gia kết luận: "Tăng thời gian và cải thiện chất lượng giấc ngủ có thể là con đường đúng để giảm nguy cơ phát triển cũng như tái phát ung thư vú".
Các nhà khoa học Mỹ tại Trung tâm Ung thư Sloan-Kettering ở New York vừa phát hiện một dạng vắc xin được bào chế từ loại virus họ hàng với bệnh đậu mùa có triển vọng được sử dụng để điều trị bệnh ung thư vú triple-negative (TNBC) hiếm gặp.
Các nhà khoa học Mỹ tại Trung tâm Ung thư Sloan-Kettering ở New York vừa phát hiện một dạng vắc xin được bào chế từ loại virus họ hàng với bệnh đậu mùa có triển vọng được sử dụng để điều trị bệnh ung thư vú triple-negative (TNBC) hiếm gặp.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tờ Y học môi trường và nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu Đan Mạch cho rằng, phụ nữ làm việc ca đêm có khả năng phát triển ung thư vú gấp 4 lần so với những phụ nữ không làm việc đêm.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tờ Y học môi trường và nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu Đan Mạch cho rằng, phụ nữ làm việc ca đêm có khả năng phát triển ung thư vú gấp 4 lần so với những phụ nữ không làm việc đêm.
Nghiên cứu của các chuyên gia ở Viện các bệnh văn minh tại Hawaii, Mỹ, cho thấy: Những phụ nữ mặc áo ngực quá chật mà kéo dài hơn 12 giờ mỗi ngày sẽ có nguy cơ phát triển bệnh ung thư vú cao hơn những người mặc áo rộng có cảm giác thoải mái. Vì nếu mặc áo quá chật thì hai đầu ngực bị ép chặt trong thời gian dài như thế sẽ kích thích sự phát triển bất thường của các tế bào mô vú.
Nghiên cứu của các chuyên gia ở Viện các bệnh văn minh tại Hawaii, Mỹ, cho thấy: Những phụ nữ mặc áo ngực quá chật mà kéo dài hơn 12 giờ mỗi ngày sẽ có nguy cơ phát triển bệnh ung thư vú cao hơn những người mặc áo rộng có cảm giác thoải mái. Vì nếu mặc áo quá chật thì hai đầu ngực bị ép chặt trong thời gian dài như thế sẽ kích thích sự phát triển bất thường của các tế bào mô vú.
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nghiên cứu ung thư vú (Mỹ), những phụ nữ có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú sẽ có thể giảm 2/4 nguy cơ bị bệnh bằng cách mỗi ngày dành ra ít nhất 20 phút để tập thể dục. Duy trì thói quen này ít nhất 5 lần/tuần, cùng với chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh.
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nghiên cứu ung thư vú (Mỹ), những phụ nữ có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú sẽ có thể giảm 2/4 nguy cơ bị bệnh bằng cách mỗi ngày dành ra ít nhất 20 phút để tập thể dục. Duy trì thói quen này ít nhất 5 lần/tuần, cùng với chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh.
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi mãn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với bình thường. Một nhóm nghiên cứu quốc tế đã kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền mãn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi mãn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với bình thường. Một nhóm nghiên cứu quốc tế đã kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền mãn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.

Thừa cân có thể dẫn đến những hậu quả của ung thư vú trở nên tồi tệ hơn, theo một nghiên cứu được ông bố trên Tạp chí Ung thư. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ thừa cân được điều trị ung thư vú có nguy cơ tử vong cao hơn so với những người bình thường, mặc dù họ nhận được những phương pháp trị liệu tốt nhất.
Thừa cân có thể dẫn đến những hậu quả của ung thư vú trở nên tồi tệ hơn, theo một nghiên cứu được ông bố trên Tạp chí Ung thư. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ thừa cân được điều trị ung thư vú có nguy cơ tử vong cao hơn so với những người bình thường, mặc dù họ nhận được những phương pháp trị liệu tốt nhất.

Khi nào ung thư vú di căn sang não?

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa. 

Ung thư vú di căn não chiếm 14 - 20% tổng số các bệnh có di căn não, đứng hàng thứ hai sau di căn não ung thư phổi. Ước tính tỷ lệ di căn não của ung thư vú từ 5,9 - 16% bệnh nhân ung thư vú, tăng lên khi mổ tử thi 18 - 30%. Trung bình mỗi năm có từ 97.800 - 170.000 bệnh nhân di căn não mới. Nhờ cộng hưởng từ phát hiện các tổn thương di căn nhỏ, điều trị toàn thân tăng lên và bệnh nhân ung thư sống lâu hơn nên số lượng di căn não tăng lên.

Di căn não thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ tiền mãn kinh. Các ổ di căn thường nằm ở ranh giới giữa chất trắng và chất xám. Di căn não có xu hướng hay gặp ở vị trí này bởi vì các mạch máu giảm kích thước, điều này tạo thành một điểm dừng của các tế bào ác tính. Di căn não cũng thường gặp ở các xoang, điểm gấp khúc của các mạch máu. Sự phân bố của các di căn não thường liên quan đến sự cấp máu của từng vùng. Khoảng 80% di căn não nằm ở bán cầu não, 15% ở tiểu não và 5% ở thân não.

Đọc nhiều nhất

Tin mới

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Trong Đông y, quả sung có tính bình, vị ngọt giúp kiện tỳ thanh tràng (kích thích tiêu hóa, làm sạch ruột), giải độc, tiêu thũng, thường được dùng để chữa các bệnh về tiêu hóa, kiết lỵ, viêm ruột, táo bón, trĩ.