Bí mật khó giải mã về tinh hoa y thuật Tây Tạng

Y thuật Tây Tạng chứa đựng nhiều tinh hoa tri thức y học cổ của Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp và Trung Quốc hình thành nên một nền y học vừa phong phú vừa kỳ bí.

Từ bấy lâu nay, các chuyên gia phương Tây luôn mong muốn đến xứ sở được xem là "nóc nhà thế giới" để tìm hiểu và khám phá về sự độc đáo của nền y thuật cổ truyền nơi đây.
Không sai khi khẳng định rằng, chưa có một nền y học nào trên thế giới lại có sự hòa quyện giữa y học với ý thức như y thuật Tây Tạng. Những y sư Tây Tạng hành nghề không chỉ để kiếm sống mà còn tự coi đây là một phương pháp tu luyện bản thân.
Y thuật và Phật giáo
Trước đây, hầu hết người hành nghề y ở Tây Tạng đều là những bậc chân tu, lấy việc làm cá nhân để cầu lợi cho chúng sinh. Do y học cổ truyền Tây Tạng gắn bó rất mật thiết với Phật pháp nên khái niệm y đức luôn được coi trọng.
Ở Tây Tạng, khi chọn thầy thuốc, tiêu chuẩn hàng đầu là y đức, còn hiểu biết và trình độ y thuật là thứ yếu. Người Tây Tạng tin rằng, khi thầy thuốc hành nghề cứu khổ chúng sinh, cộng với lòng từ bi rộng mở, những phương thuốc bình thường cũng sẽ trở nên hiệu nghiệm hơn rất nhiều so với người giỏi y thuật nhưng tâm không thiện. Do đó, đối với thầy thuốc Tây Tạng, trí tuệ và lòng từ bi phải được chú trọng như nhau.
Người nhập môn y thuật Tây Tạng trước hết phải thuộc những điều thệ nguyện được lấy từ bộ y thư kinh điển Tứ bộ y điển, và hằng ngày y sinh phải đọc lại những điều ấy. Bộ kinh Tứ bộ y điển dạy về cách đối xử giữa thầy thuốc với người bệnh, trách nhiệm của người thầy với môn đồ, hay đặt ra yêu cầu phẩm cách của một thầy thuốc.
Bi mat kho giai ma ve tinh hoa y thuat Tay Tang
Thầy thuốc người Tây Tạng chế biến thuốc từ các dược liệu theo những công thức bí truyền lâu đời. 
Người hành nghề thuốc phải luôn tâm niệm, những hiểu biết và trình độ y thuật chỉ làm cho một người trở thành chuyên gia về y tế chứ không thể trở thành một vị lương y nếu không có tâm trong sáng và từ bi.
Theo y thuật Tây Tạng, từ bi còn là một phần không thể thiếu để có được sức khỏe và hạnh phúc. Từ bi có thể mang lại sự khỏe mạnh vì sức khỏe của tinh thần là chìa khóa cho sức khỏe của cơ thể. Từ bi giúp cơ thể duy trì sự cân bằng. Khi tâm có hạnh phúc, cơ thể sẽ tự nhiên khỏe mạnh lên.
Từ đây, y học Tây Tạng chia bệnh tật làm hai nhóm: nội bệnh và ngoại bệnh. Nhắc tới nội bệnh là phản ánh lòng tham lam, oán hận và mê muội của con người, không thể chữa trị bằng phương pháp thông thường.
Trong khi đó, ngoại bệnh là những đau đớn về thể xác và tinh thần, có thể dùng thuốc và các phương pháp y học hiện đại nhằm chữa lành, chống tái phát. Con người đã sai lầm khi lầm tưởng bệnh tật đến từ yếu tố bên ngoài, nhưng thực chất xuất phát từ trong tâm của phần "người". Không thoát khỏi tham-sân-si, là không thể khỏi bệnh và sống một đời an yên, vui vẻ.
Những vị lương y Tây Tạng không chỉ quan tâm đến việc chữa trị thân bệnh mà còn có trách nhiệm chăm sóc tâm bệnh của bệnh nhân, nhất là khi họ cận kề cái chết. Với tín ngưỡng sâu sắc vào Phật giáo, người Tây Tạng thuộc tầng lớp nào cũng tin tưởng một cách tuyệt đối rằng cái chết là sự khởi đầu của một cuộc sống mới, là một quá trình trong luân hồi chứ không phải kết thúc.
Bi mat kho giai ma ve tinh hoa y thuat Tay Tang-Hinh-2
Y thuật Tây Tạng rất chú trọng đến những lợi ích của thiền định. 
Vì thế, quan niệm về cái chết của người Tây Tạng khá nhẹ nhàng, không lo buồn. Khi các lương y Tây Tạng chẩn đoán thấy rằng bệnh nhân không thể qua khỏi, họ sẽ trực tiếp nói với người ấy: "Tốt nhất nên chuẩn bị hành lý cho một chuyến lữ hành".
Nền y học cổ truyền Tây Tạng luôn gắn liền với những giáo lý của Phật giáo. Có sinh là có tử, đó là quy luật tất nhiên. Mỗi con người đến một lúc nào đó đều phải đối mặt cái chết, đồng thời cũng hy vọng rằng lúc sắp chết được nhẹ nhàng, không đau đớn và khổ sở. Y học Tây Tạng mong muốn đem lại sức khỏe vĩnh hằng cho con người, nhưng đồng thời sẽ tiêu trừ sự lo sợ đối với cái chết của người sắp lâm chung.
Bất cứ người nào cũng không thoát khỏi bệnh khổ và tử vong, do đó cũng không cần lo nghĩ về chúng. Sự chuyển hóa từ kiếp này sang kiếp khác là do nghiệp báo thiện ác của mỗi cá nhân gây ra. Vì vậy, mỗi con người nên nắm bắt thời gian ngắn ngủi của cuộc đời, và sống thật trọn vẹn. Điều này càng khiến cho nền y học Tây Tạng thật sự đáng học hỏi và ngưỡng mộ.
Chưa thể giải mã
Những bí ẩn về cách giữ gìn sức khỏe của nền y thuật Tây Tạng chưa bao giờ được giải mã hoàn toàn. Người Tây Tạng coi trang sức cũng là một loại dược liệu bảo vệ thân thể khỏi bệnh tật, được khắc 6 chữ bùa "om mani padme hum" gọi là lục tự chân ngôn. Phật giáo Tây Tạng cho rằng thường đeo 6 chữ này sẽ tiêu trừ bệnh khổ, không còn lo lắng, tăng tuổi thọ và sung túc.
Trong khi đó, nhiều vòng cổ tạo hình gậy kim cang, một loại đồ pháp khí dùng để hàng ma phục yêu, đeo trên người giúp tăng sức mạnh và trí tuệ. Người Tây Tạng cũng rất hay dùng những chiếc hộp trang sức bằng bạc hay đồng, trên khảm hình Phật bằng vàng như là bùa hộ thân.
Trong y học Tây Tạng, ngoài những phương pháp chữa bệnh bằng ăn uống, điều chỉnh lối sống, thực phẩm thiên nhiên hay vật lý trị liệu, liệu pháp châm cứu rất được ưa dùng vì đơn giản và hiệu quả. Điều đặc biệt ở đây là, người Tây Tạng sử dụng vàng để chế tạo kim dùng trong châm cứu.
Từ xa xưa, người Tây Tạng đã hiểu đặc tính của vàng, thường dùng kim vàng để hút những tạp vật ô uế trong khí mạch. Chưa hết, y sư Tây Tạng thậm chí "chế biến" bột vàng cùng nhiều loại dược liệu quý giá có nguồn gốc thực vật và khoáng chất khác, theo những công thức bí truyền, để bào chế nên viên thuốc "bảo hoàn". Nhiều ý kiến nhận định, loại thuốc này rất quý và công hiệu, được người Tây Tạng thường mang theo bên mình như bùa hộ mạng.
Kỹ thuật bắt mạch của y học Tây Tạng phức tạp hơn nhiều so với việc chỉ đo nhịp tim. Để bắt mạch, thầy thuốc dùng ba ngón tay đặt lên vùng da cổ tay dưới ngón tay cái.
Bi mat kho giai ma ve tinh hoa y thuat Tay Tang-Hinh-3
Hình ảnh kĩ thuật cố định xương được ghi chép lại bởi các thầy thuốc. 
Sau nhiều năm rèn luyện, họ có thể nhận ra nhịp đập mạnh yếu, nhanh chậm phản ánh tình trạng sức khỏe của các cơ quan khác nhau trong cơ thể như thế nào. Kỹ thuật này chính xác một cách đáng ngạc nhiên. Tiết chế và thay đổi lối sống thường là bước đầu tiên trong cách chữa trị của y học Tây Tạng.
Bước tiếp theo là dùng thảo dược Tây Tạng bao gồm từ 3 cho đến hơn 150 loại thảo dược và khoáng chất khác nhau. Những phương thuốc này có công thức rất chính xác và được sản xuất qua quá trình vô cùng phức tạp. Trong văn học và y học Tây Tạng, họ tin sự cầu nguyện mang lại năng lượng. Cầu nguyện trong lúc uống thuốc được cho là giúp thuốc có tác dụng tốt hơn.
Bên cạnh đó, y thuật Tây Tạng cũng rất chú trọng đến những lợi ích của thiền định. Giới nghiên cứu nhận định, thiền định vốn có nguồn gốc từ rất lâu đời, gắn liền với các môn tu luyện cổ xưa trong lịch sử nhân loại.
Chỉ xét đến những hiệu quả tích cực lên sức khỏe, khả năng chữa bệnh khỏe người thì khoa học hiện đại ngày nay mới chỉ đang ở mức ghi nhận một số hiện tượng diễn ra ngoài bề mặt, mà chưa thể đi vào giải thích bởi vì có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ và không theo các nguyên lý thông thường.
Các tín đồ Phật giáo cho rằng hiện thực mà chúng ta đang sống không phải là cảnh giới cuối cùng, mà còn có một cảnh giới khác không thụ nhận cảm giác và ảnh hưởng từ thế giới hiện thực này và+ chỉ có thể đạt được thông qua thiền định.
Khi nghiên cứu về những nhà sư Tây Tạng, nhiều nhà khoa học cho biết nhiệt năng phát ra từ thân thể họ chỉ là sản phẩm phụ của việc ngồi thiền. Nếu xét từ quan niệm vật chất hiện đại, cơ thể con người được cấu thành từ những tế bào, tế bào được tổ hợp từ hơn 100 nguyên tố hóa học cơ bản.
Nó cũng phù hợp với học thuyết ngũ hành của phương Đông từ xa xưa, rằng ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) cấu thành nên vạn sự, vạn vật (bao gồm cả thân thể người). Tuy nhiên, hai trường phái này có những lý thuyết và phương pháp phòng - trị bệnh khác nhau, đôi khi sự khác biệt rất lớn thậm chí đến mức đối ngược nhau.
Ngày nay, các vấn đề sức khỏe của con người dường như đã vượt khỏi tầm kiểm soát của khoa học hiện đại khi có rất nhiều bệnh mới xuất hiện. Vấn đề này chưa được giải quyết xong thì đã phát sinh thêm vấn đề khác. Đó cũng là điều thôi thúc nhiều người đặt chân lên hành trình về phương Đông, về với "vùng đất thiêng" Tây Tạng để tìm hiểu những điều huyền bí vô tận, giải mã nền y thuật cổ truyền nơi đây với hi vọng đem lại cho loài người một cuộc sống khỏe mạnh hơn, cả về thể chất lẫn tinh thần...

4 lý do cần tăng lương tối thiểu cho người lao động

Tổng LĐLĐ Việt Nam đã đưa ra 4 lý do cần tăng lương tối thiểu cho người lao động trong thời điểm này.

Hội nghị Đoàn chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam sáng 26/8 tại Hà Nội được bắt đầu với vấn đề nóng nhất là điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng.

Lương tối thiểu năm 2017 sẽ tăng không dưới 10%

Còn không đầy nửa tháng nữa, Hội đồng tiền lương quốc gia sẽ phải chốt tăng lương tối thiểu năm 2017.

Lương tối thiểu vùng vừa phải đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của lao động, vừa duy trì được sự sống còn và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bài toán khó giải về lương tối thiểu năm 2017 khi có sự tranh luận gay gắt - nên tăng hay giảm? Dự báo không dưới 10%
Luong toi thieu nam 2017 se tang khong duoi 10%
Người lao động không có hợp đồng vẫn chưa được hưởng lợi từ tăng lương tối thiểu vùng
So với việc chốt phương án tăng lương tối thiểu năm 2016 (vào tháng 9/2015), năm nay việc thương lượng giữa hai bên VCCI và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trở nên kín tiếng hơn. Mức tăng lương tối thiểu vùng năm 2016 đạt 12,4% đã khiến không ít doanh nghiệp phải chịu cú sốc. Cùng lúc, họ vừa phải tăng lương tối thiểu vùng, lại vừa phải tăng đóng BHXH, tiền công đoàn phí... Ông Phạm Minh Huân – Thứ trưởng Bộ LĐTBXH cho biết, tổ kỹ thuật của Hội đồng tiền lương quốc gia đang yêu cầu các bên thương lượng để gửi phương án cuối cùng. Sau khi nhận phương án từ các bên, tổ kỹ thuật sẽ đưa ra phương án dự bị. Tuy nhiên, ngay từ lúc này một số chuyên gia cũng đưa ra những dự báo về mức tăng lương tối thiểu vùng năm 2017. Theo đó, phần đông ý kiến các chuyên gia độc lập đều cho rằng: Mức tăng lương tối thiểu năm 2017 khả năng sẽ không cao bằng năm 2016 (năm 12,4%), nhưng chắc chắn sẽ không dưới 10-11%. Theo tính toán trước đó (năm 2015) của Hội đồng tiền lương quốc gia, lương tối thiểu còn cách khoảng 15-20% so với mức sống tối thiểu. Do vậy, nếu muốn đạt được lộ trình tới năm 2018, mức lương tối thiểu vùng đáp ứng được mức sống tối thiểu cho công nhân lao động (LĐ), bắt buộc phải duy trì mức tăng lương không dưới 10%. Ông Bùi Sỹ Lợi – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cũng đưa ra dự báo và cho rằng mức tăng lương tối thiểu vùng năm 2017 chắc chắn sẽ không cao. “Trong tháng 3 Ủy ban cùng một số đơn vị đã có giám sát về tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi ở các doanh nghiệp, nhìn chung tất cả các doanh nghiệp đều chấp hành và thực hiện theo. Tuy vậy, cũng có một bộ phận nhỏ doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm xã hội, kêu khó khăn. Nghe thấy tăng lương tối thiểu vùng là doanh nghiệp rất lo sợ” – ông Lợi nói. Theo ông Lợi, để tìm ra căn cứ chung, có lẽ các bên nên quay trở lại tiêu chí tiền lương. Tiền lương là chi phí để chủ doanh nghiệp trả cho người LĐ căn cứ vào số lượng và chất lượng công việc đảm nhiệm. Tiền lương tăng phải căn cứ vào tốc độ tăng năng suất LĐ, do đó bao giờ tốc độ tăng tiền lương cũng chậm hơn tăng năng suất LĐ. Đồng tình với ý kiến này, ông Trương Văn Cẩm Lý – Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng, tăng lương tối thiểu phải gắn với điều tiết thị trường LĐ. “Chúng ta đang tập trung thái quá vào việc tăng lương cho LĐ thu nhập thấp, ít chú ý đến chức năng điều tiết thị trường LĐ của lương tối thiểu” – ông Cẩm nhấn mạnh. Chính vì vậy, đại diện cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam - ngành sử dụng nhiều LĐ nhất - kiến nghị nên dãn lộ trình tăng lương tối thiểu để doanh nghiệp ổn định, tái sản xuất. Có thể áp dụng lộ trình 2-3 năm 1 lần. Cách đây 1 tháng Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng đã gửi văn bản tới VCCI, Bộ LĐTBXH kiến nghị, nên tạm dừng việc tăng lương tối thiểu vùng vào năm 2017. Lao động vẫn yếu thế Một diễn biến khác ít được chú ý, nhưng các chuyên gia độc lập lại luôn đặt câu hỏi: Lương tăng thì sẽ có bao nhiêu LĐ được hưởng lợi? Hiện nay cả nước có hơn 54 triệu LĐ, tuy nhiên chỉ có 41% LĐ làm công hưởng lương, số còn lại không có quan hệ LĐ. Như vậy, việc tăng lương tối thiểu vùng chỉ có bộ phận LĐ có quan hệ lao động được hưởng lợi. Về vấn đề này, ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng điều này là không tránh khỏi. “Mặc dù chúng ta mong muốn điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng để cải thiện lương cho nhóm LĐ làm trong doanh nghiệp nhỏ, LĐ hộ gia đình, hợp tác xã (chưa có ký kết hợp đồng LĐ)… nhưng tới thời điểm này chúng ta không làm được vì chẳng có ai kiểm tra, giám sát. Chỉ có những doanh nghiệp có quan hệ LĐ người ta mới xử lý được vấn đề đó. Thời gian tới chúng ta cũng phải điều chỉnh để cân bằng quyền lợi của nhóm LĐ này” – ông Lợi nhấn mạnh. Trong khi đó, phân tích về lợi ích của LĐ khi tăng lương, ông Trương Văn Cẩm cho rằng, việc tăng lương tối thiểu là để bảo vệ người LĐ có thu nhập thấp và họ phải thực sự được hưởng lợi từ việc tăng lương. Tuy nhiên, lương tối thiểu lại gắn với tăng các khoản đóng bảo hiểm xã hội, phí công đoàn… của doanh nghiệp và người LĐ. Ông Trương Văn Cẩm khẳng định: “Như vậy, LĐ lương thấp cũng sẽ không được tăng là bao”.

Đọc nhiều nhất

Tin mới

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Lợi ích sức khoẻ tuyệt vời từ quả sung

Trong Đông y, quả sung có tính bình, vị ngọt giúp kiện tỳ thanh tràng (kích thích tiêu hóa, làm sạch ruột), giải độc, tiêu thũng, thường được dùng để chữa các bệnh về tiêu hóa, kiết lỵ, viêm ruột, táo bón, trĩ.