Lựu đạn cầm tay: “Thủy tổ” của chiến tranh hiện đai

(Kiến Thức) - Thứ vũ khí sát thương này có tuổi đời đã nửa thiên niên kỷ khi mà nó đã ra đời từ thế kỷ 16 và vẫn tồn tại trong chiến tranh hiện đại.

Kể từ khi thuốc súng ra đời, các loại lựu đạn đã đồng hành với người lính trên chiến trường dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ thiên niên kỷ thứ nhất, người Trung Hoa đã sử dụng các loại lựu đạn cầm tay thô sơ làm từ đất sét hay giấy và từ thời Trung Đại đã có các loại lựu đạn hình cầu làm từ gang có sức nổ tương đối và văng mảnh sát thương rất cao. Trong khoảng từ thế kỷ 16 tới 19, lựu đạn đã được chế tạo dưới nhiều hình thức khác nhau, thậm chí có cả loại lựu đạn ngòi nổ va đập hay thậm chí là có cánh để ổn định đường bay.
Giai đoạn từ thế kỷ 18, lựu đạn trở thành một thứ vũ khí thứ cấp về mặt chiến thuật, hữu dụng trong cả phòng thủ lẫn tấn công. Tuy nhiên phải mãi tới Chiến tranh Thế giới thứ nhất, lựu đạn mới trở thành một phần cốt yếu trong quân trang của người lính, quan trọng như súng và đạn vậy.
Khởi đầu thô sơ
Lựu đạn về cơ bản là một loại pháo cá nhân, ném bằng tay (thủ pháo) của bộ binh. Dù bị giới hạn bởi sức ném của người sử dụng, tầm ném tối đa của các loại lựu đạn hạng nhẹ cũng vào khoảng 46 mét, kèm theo đó là khả năng "lùa" bộ binh đối phương ra khỏi nơi ẩn nấp an toàn. Thứ vũ khí này rất lý tưởng để quét đối phương trong không gian hẹp như trong hầm hay các căn phòng.
Lính Đức sử dụng lựu đạn "chày" trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Nguồn ảnh: Sparta.
 Lính Đức sử dụng lựu đạn "chày" trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Nguồn ảnh: Sparta.
Khi mặt trận phía Tây chuyển sang thế trận giằng co vào cuối năm 1914, các khoảng không gian hẹp như vậy xuất hiện ở khắp mọi nơi. Lựu đạn bỗng nhiên trở thành một thứ vũ khí lý tưởng để tấn công boong-ke, chiến hào - một bài học được rút ra từ chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905. Tuy nhiên chủng loại và số lượng lựu đạn mà các phe sử dụng trong những năm đầu cuộc chiến là rất khác nhau.
Người Đức được chuẩn bị kỹ càng nhất, họ có khoảng 70.000 trái lựu đạn cầm tay và 106.000 trái lựu đạn phóng bằng súng và chúng được dự trữ sẵn trong kho trước khi chiến tranh bắt đầu. Các lực lượng Pháp và Nga cũng có số lượng tương đương nhưng riêng quân Anh lại chỉ có một số lượng rất ít loại lựu đạn Mk I. Loại lựu đạn của quân Anh hiện đại hơn cả với khả năng kích nổ bằng va chạm thay vì cháy chậm như các loại tương tự. Mặc dù hiện đại là thế, lựu đạn Mk I của Anh lại thiếu tin cậy, nó có thể phát nổ ngay lập tức nếu người lính nhỡ tay làm rơi sau khi rút chốt.
Tất cả các phe đều sản xuất ra các loại lựu đạn tự chế, để thỏa mãn nhu cầu không giới hạn của chiến tranh chiến hào. Cả chất lượng lẫn tính sáng tạo của các loại lựu đạn này đều rất khác biệt. Ví dụ, lựu đạn thông dụng của người Anh chỉ bao gồm một hộp thiếc nhồi đầy thuốc nổ nitrôxenlulô và các mảnh vỡ, gắn với một ngòi nổ ma sát. Các phiên bản tương tự của Đức và Pháp thường có cán gỗ dài, giúp người lính ném được xa hơn nhiều so với lựu đạn tròn dù chúng cồng kềnh hơn hẳn.
Lính lựu đạn. Nguồn ảnh: World.
 Lính lựu đạn. Nguồn ảnh: World.
Vũ khí trang bị tiêu chuẩn
Năm 1915, các mẫu lựu đạn cầm tay chính thức bắt đầu được sử dụng. Những mẫu này sẽ thiết lập xu thế căn bản trong thiết kế và sử dụng lựu đạn cho tới tận ngày nay. Quả lựu đạn có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất chính là loại mang tên "Mills" 5 của Anh do William Mills từ Sunderland thiết kế. Lựu đạn này có hình quả dứa, được làm từ gang, bề ngoài có rãnh để tạo hiệu quả văng mảnh tốt khi phát nổ.
Để sử dụng, người ném sẽ kéo một chốt an toàn đang giữ cố định một mỏ vịt kim hỏa ở trạng thái căng lò xo. Người lính thường sẽ nắm mỏ vịt tới khi anh ta ném quả lựu đạn đi, khi đó mỏ vịt sẽ văng ra và kích hoạt ngòi nổ chậm trong bốn giây. Cũng có trường hợp người lính cố tình thả mỏ vịt ra trước khi ném để quả lựu đạn nổ ngay trên không, gây sát thương rộng hơn.
Tới Chiến tranh Thế giới thứ hai, Đức vẫn dùng lựu đạn chày. Nguồn ảnh: New.
 Tới Chiến tranh Thế giới thứ hai, Đức vẫn dùng lựu đạn chày. Nguồn ảnh: New.
Chỉ nặng 0,57 kg, lựu đạn Mills có thể cầm vừa vặn trong lòng bàn tay và có thể được ném xa khoảng 14 mét. Do vậy, nó được sử dụng rộng rãi - và đã có hơn 70 triệu quả được chế tạo cho đến khi chiến tranh kết thúc. Năm 1915, Đức cũng đã tự chế tạo loại lựu đạn mang dấu ấn của riêng mình mang tên Stielhandgranate Model 24 với đầu thuốc nổ gắn vào cán gỗ dài. Dây kéo của ngòi nổ ma sát chạy dọc thân cán, nhờ cán mà quả Model 24 có thể ném xa gấp đôi lựu đạn Mills.
Những loại này cùng nhiều loại lựu đạn nổ chậm khác đã trở thành trọng tâm của chiến thuật bộ binh trong Thế chiến thứ nhất và sau này. Ví dụ, người Anh đã tấn công chiến hào bằng những đội ném lựu đạn với 9 người: Hai người sẽ đều đặn ném lựu đạn vào hào và boong-ke, hai người khác có nhiệm vụ xách lựu đạn trong khi những người còn lại sẽ yểm trợ và quét sạch đối phương bằng vũ khí cá nhân khi chúng đang luống cuống bỏ chạy tránh lựu đạn. Trong Thế chiến thứ hai, lựu đạn cũng là thứ vũ khí cốt yếu cho các trận đánh đô thị bởi nó là cách tốt nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất để dọn trống một căn phòng.
Lính Mỹ cũng thích sử dụng lựu đạn của Đức vì nó ném được xa hơn, tuy nhiên nhược điểm của loại lựu đạn này là cháy chậm lâu, từ 7 tới 10 giây, đối phương thừa thời gian để nhặt lên ném lại về phía người ném. Nguồn ảnh: Mine.
 Lính Mỹ cũng thích sử dụng lựu đạn của Đức vì nó ném được xa hơn, tuy nhiên nhược điểm của loại lựu đạn này là cháy chậm lâu, từ 7 tới 10 giây, đối phương thừa thời gian để nhặt lên ném lại về phía người ném. Nguồn ảnh: Mine.
Ngày nay ta vẫn thấy các chiến thuật tương tự được sử dụng ở Afghanistan hay ở các vùng chiến sự khác, điều này chứng tỏ, dù khoa học công nghệ có tiên tiến đến đâu, vũ khí thô sơ vẫn có một chỗ đứng nhất định.
Mời độc giả xem Video: Muôn hình vạn trạng các loại lựu đạn cầm tay trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Nguồn: CriticalPast.

Video

Mỹ tìm hướng thay thế lựu đạn thời chiến tranh Việt Nam

(Kiến Thức) - Kể từ Chiến tranh Việt Nam cho tới nay Quân đội Mỹ vẫn chưa hề phát triển bất kỳ mẫu lựu đạn sát thương nào mới.

My tim huong thay the luu dan thoi chien tranh Viet Nam
 Theo Army Recognition đưa tin cho hay, Viện nghiên cứu vũ khí picatinny Arsenal của Quân đội Mỹ đã bắt đầu chương trình phát triển lựu đạn thế hệ mới dành cho quân đội nước này. Đây cũng là lần đầu tiên sau 40 năm Mỹ phát triển lựu đạn mới.

Khó đỡ nhược điểm của lựu đạn trong CTTG 2

(Kiến Thức) - Lựu đạn Type 97 của Nhật phải đập trước khi ném, trong khi RPG-40 của Liên Xô thì cực lớn...là những điều kỳ cục về lựu đạn trong CTTG 2.

Kho do nhuoc diem cua luu dan trong CTTG 2
 Đầu tiên là loại lựu đạn "mỏ vịt" MK 2 của Quân đội Mỹ. Đây là loại lựu đạn được sử dụng để chống bộ binh với sức nổ trung bình kém, có cơ chế "bóp cò, giật chốt" giống hệt các loại lựu đạn ngày nay. Nguồn ảnh: 90th.
Kho do nhuoc diem cua luu dan trong CTTG 2-Hinh-2
 Ưu điểm của loại lựu đạn này là rất nhẹ, chỉ khoảng 500 gram và khá vừa tay khi ném, lựu đạn cầm tay MK 2 có thời gian nổ rất nhanh, chỉ khoảng 3,5 giây sau khi thả mỏ vịt, tuy nhiên vì thời gian nổ quá nhanh nên dễ gây nguy hiểm cho người sử dụng. Lựu đạn MK 2 rất thích hợp để dọn boong-ke hoặc nhà trống vì có sức nổ vừa phải và tốc độ nổ nhanh, kẻ địch không đủ thời gian để nhặt lên ném lại ra ngoài. Nguồn ảnh: WWII.

Giải mã trận đánh "chấn động địa cầu" của đặc công rừng Sác

(Kiến Thức) - Mưu trí táo bạo, đánh hiểm thắng lớn chính là những từ mà truyền thống thế giới mưu tả về lối đánh và chiến thắng của Đặc công rừng Sác.

Giai ma tran danh "chan dong dia cau" cua dac cong rung Sac
 Đặc công rừng Sác là một trong những lực lượng chiến đấu đặc biệt của quân đội ta trong Chiến tranh Việt Nam với khả năng xuất quỷ nhập thần trên chiến trường. Vào đêm ngày 2, rạng sáng mồng 3/12/1973, Đặc công rừng Sác đã có một trận đánh táo bạo gây tiếng vang chấn động địa cầu với việc tấn công tổng kho xăng dầu Nhà Bè, kho chứa nhiên liệu lớn nhất miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Nguồn ảnh: VietNamNet.
Giai ma tran danh "chan dong dia cau" cua dac cong rung Sac-Hinh-2
Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1970, Tổng kho xăng dầu Nhà Bè là nơi dự trữ hàng hóa cho ba Tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới lúc bấy giờ là Caltex, Shell và Esso. Trong đó kho của Shell là lớn nhất cung cấp 60% xăng, dầu cho các hoạt động quân sự và dân sự trên toàn miền nam. Nguồn ảnh: Reds.

Đọc nhiều nhất

Tin mới