Lê Trung Tông ở ngôi ba ngày, tám tháng hay một năm?

(Kiến Thức) - Xét thực tế, Lê Trung Tông chỉ làm vua 3 ngày, nhưng theo phép chép sử xưa thì thời gian ấy phải là 8 tháng, thậm chí tính tròn 1 năm.

Lê Trung Tông ở ngôi ba ngày, tám tháng hay một năm?
Không ham tranh giành nhưng lại được chọn truyền ngôi
Vua Lê Đại Hành có tất cả 11 người con trai và 1 người con nuôi, sau khi lên ngôi, ông đã lần lượt phong vương cho họ rồi cử đi trấn trị ở các vùng đất quan trọng. Vào năm Kỷ Sửu (989), vua phong người con cả là Thái tử Thâu (còn gọi là Thau) làm Kình Thiên Đại Vương, hoàng tử thứ hai là Ngân Tích (còn gọi là Long Tích) làm Đông Thành Vương, hoàng tử thứ ba là Long Việt làm Nam Phong Vương. Đến năm Tân Mão (991), vua phong hoàng tử thứ tư là Long Đinh làm Ngự Man Vương cho đóng ở Phong Châu (thuộc Phú Thọ ngày nay), hoàng tử thứ sáu là Long Cân làm Ngự Bắc Vương đóng ở trại Phù Lan (nay thuộc huyện Đường Hào, Hưng Yên).
Năm Nhâm Thìn (992) Lê Đại Hành tiếp tục phong hoàng tử thứ năm là Long Đĩnh làm Khai Minh Vương cho đóng ở Đằng Châu (nay thuộc huyện Kim Động, Hưng Yên). Tới năm Quý Tỵ (993) hoàng tử thứ bảy là Long Tung được phong làm Định Phiên Vương, đóng ở thành Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang (nay thuộc huyện Yên Phong và Tiên Du, Bắc Ninh); hoàng tử thứ tám là Long Tương được làm Phó Vương, đóng ở Đỗ Động Giang (nay thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội); hoàng tử thứ chín là Long Kính được phong làm Trung Quốc Vương đóng ở Càn Đà, huyện Mạt Liên (nay thuộc huyện Tiên Lữ, Hưng Yên). Năm Giáp Ngọ (994) vua phong hoàng tử thứ mười là Long Mang làm Nam Quốc Vương, đóng ở châu Vũ Lung (nay thuộc tỉnh Thanh Hoá).
Năm Ất Mùi (995), phong hoàng tử thứ mười một là Long Đề (còn gọi là Minh Đề) làm Hành Quân Vương, đóng ở Bắc Ngạn châu Cổ Lãm (nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh.); còn người con nuôi của vua là Dương Hy Liễn được phong làm Phù Đái Vương, đóng ở hương Phù Đái (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).
Năm Canh Tý (1000) Thái tử Long Thau tước Kình Thiên Vương mất, đến tháng giêng năm Giáp Thìn (1004) vua lập người con thứ ba là Nam Phong Vương Long Việt làm hoàng thái tử, gia phong con thứ năm là Long Đĩnh làm Khai Minh Đại Vương và con thứ hai là Long Tích làm Đông Thành Đại Vương. Sở dĩ có chuyện này là vì lẽ ra theo thứ bậc hoàng tử thứ hai là Đông Thành Vương Long Tích nhưng hoàng tử thứ 5 là Long Đĩnh có ý tranh giành nên Lê Đại Hành đã dung hòa bằng việc lập Lê Long Việt, hoàng tử thứ ba làm Thái tử. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Giáp Thìn, năm thứ 11 (1004). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 1). Tháng giêng, mùa xuân. Lập Nam Phong vương Long Việt làm Thái tử.
Trước đây, con trưởng là Kình Thiên đại vương Long Thâu mất, Ngân Tích, theo thứ tự, đáng được lập. Bấy giờ Long Đĩnh cầu xin làm Thái tử, ý nhà vua muốn cho; đình thần bàn rằng không lập con trưởng mà lập con thứ thì không hợp lễ; thành thử lại thôi. Đến đây, lập Long Việt làm Thái tử, gia phong Đông Thành vương Ngân Tích và Khai Minh vương Long Đĩnh làm đại vương”.
Vì sao Lê Trung Tông bị sử sách vừa chê trách, vừa tiếc nuối?
Tháng 3 năm Ất Tị (1005), Lê Đại Hành mất ở điện Trường Xuân, triều thần chuẩn bị làm lễ tôn Thái tử Lê Long Việt lên ngôi kế vị nhưng các anh em của ông dấy quân tranh giành ngai vàng, chép gần giống như sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong sách Đại Việt sử ký tiền biên cũng viết: “Sau khi vua Đại Hành băng, Đông Thành Vương là Ngân Tích, Trung Quốc Vương là Kính và Khai Minh Vương là Long Đĩnh đều nổi loạn nên Thái tử vẫn chưa được lên ngôi, giằng co nhau đến 8 tháng, trong nước vô chủ”.
Đến tháng 10 năm Ất Tị (1005), sau 8 tháng tranh giành quyền lực với các anh em, Lê Long Việt lên ngôi được 3 ngày thì bị giết chết, thọ 23 tuổi. Nhà sử học Lê Văn Hưu bàn về chuyện này đã viết như sau: “Ngọa Triều giết anh tự lập làm vua, bạo ngược với dân chúng để thỏa lòng hung ác, đến nỗi mất ngôi, mất nước, không phải là sự bất hạnh của nhà Lê mà là lỗi ở Đại Hành không sớm đặt Thái tử và do Trung Tông không biết phòng giữ từ khi mới chớm nên đến nỗi thế!”.
Đế vương ngã gục trước sát thủ. Tranh minh họa.
Đế vương ngã gục trước sát thủ. Tranh minh họa.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên đánh giá về Lê Trung Tông: “Vua không biết phòng giữ cẩn mật đến nỗi bị nạn, có tính nhân hậu mà không biết làm vua, đáng tiếc thay!”. Trong Việt giám thông khảo tổng luận, một sử thần triều Hậu Lê là Lê Tung viết: “Trung Tông vâng di chiếu của Lê Đại Hành, vào nối ngôi vua, tha tội cướp ngôi giết vua cho em cùng mẹ, mà chính lệnh quá phần nhu nhược”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Sách Dã sử chép rằng Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung tông vì anh em cùng mẹ không nỡ giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông. Thế thì Trung Tông về tình anh em tuy là hậu, nhưng việc đứng chủ cúng tế, nối dõi tổ tiên thì xã tắc là trọng, anh em là khinh, huống chi là em bất dễ! Lúc ấy Trung Tông phải nêu việc Quản Thúc, Thúc Nha mà trị tội thì mới phải, nếu không làm thế thì đem giam cầm ở một nơi riêng cho đến khi chết cũng được. Nhưng Trung Tông lại thả lỏng thì sao cho khỏi bị phản, rốt cuộc tan họ, diệt dòng là tự Trung Tông làm ra cả. Ngọa Triều thì có bõ trách làm chi? Cho nên người làm vua tất phải cư xử cho thật đúng đắn và phải xét hết lẽ vậy”.
Có thể nói theo sử sách một con người nhân hậu, đức độ như Lê Trung Tông mà ở ngôi vua là điều có phúc cho dân, cho xã tắc, nhưng vì thiếu quyết đoán, không nghiêm khắc, cẩn thận nên dẫn đến bi kịch cho bản thân và cho cả vương triều Tiền Lê.
Ở ngôi ba ngày, tám tháng hay một năm?
Sử sách đều chép rằng lẽ ra Thái tử Lê Long Việt lên ngôi ngay sau khi vua cha băng hà, nhưng vì tranh chấp với các anh em nên sau 8 tháng đánh nhau ông mới giành ưu thế, rồi mới có thể tổ chức lễ đăng quang, chính thức làm vua nhưng mới được 3 ngày đã bị giết chết.
Lê Trung Tông, vị hoàng đế bạc mệnh. Tranh minh họa.
Lê Trung Tông, vị hoàng đế bạc mệnh. Tranh minh họa.
Chỉ với 3 ngày ở trên ngôi báu, Lê Trung Tông cùng với Dục Đức triều Nguyễn là hai vị vua có thời gian cai trị ngắn nhất. Tuy nhiên theo phàm lệ về việc biên soạn sách Đại Việt sử ký toàn thư thì lệ chép sử các triều vua được tính như sau: “Đế vương các đời ở ngôi lâu hay chóng, vị trước sáng nghiệp năm nào thì lấy năm ấy làm năm bắt đầu ở ngôi, đến năm nào chết, hay nhường ngôi hoặc bị giết mà vị sau nối lên ngôi và đổi niên hiệu thì năm ấy hãy còn là năm cuối cùng của vị vua trước. Hoặc là chết hay nhường ngôi vào mùa xuân, mùa hạ năm ấy, thì năm ấy là năm đầu ở ngôi của vị sau, mà những tháng mùa xuân, mùa hạ ấy là tháng còn lẻ lại của vị trước; nếu chết hay nhường ngôi vào cuối năm, tính lại những năm ở ngôi còn có những tháng chưa hết thì cũng gọi là tháng lẻ… Lê Trung Tông lên ngôi được 3 ngày thì bị giết, nhưng các vương tranh nhau làm vua đến 8 tháng, những tháng ấy ở vào trong năm Trung Tông nối ngôi, cho nên chép Trung Tông là vua, để định tội của Ngọa Triều cướp ngôi giết anh, mà tính kể là Trung Tông nối ngôi được 1 năm”.
Trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, nhà sử học Ngô Sĩ Liên thì bàn rằng: “Xét việc Trung Tông lên ngôi mới được 3 ngày, chưa kịp đổi niên hiệu đã bị giết, trước 3 ngày đó thuộc Đại Hành, sau 3 ngày đó thuộc Ngọa Triều. Niên hiệu hình như không lệ thuộc vào đâu, nhưng Trung Tông chính ngôi Thái tử, Lê Đại Hành mất, [Trung Tông] vâng theo di chiếu nối ngôi, tức là Thái tử lên ngôi báu đã thành vua rồi. Năm đó tuy Ngọa Triều đã cướp ngôi, nhưng cũng chưa có niên hiệu, đối với phép chép sử biên niên không có vướng mắc gì. Xét như Bắc sử, khi vua Minh Thần Tông mất, Thái tử Hy Tông lên nối ngôi, chưa kịp đổi niên hiệu nhưng sử vẫn chép to chữ “Hy Tông” cho rõ chính thống mà niên hiệu thì viết to chữ “Vạn Lịch năm thứ 40 vua [Thần Tông] mất”. Như vậy kỷ Lê Trung Tông nên chép theo phép chép ấy là đúng, cho nên chép theo như thế”.
Nếu xét thực tế thì Lê Trung Tông chỉ làm vua có 3 ngày nhưng theo cách tính thời gian theo phép chép sử thời xưa thì thời gian làm vua của ông được tính là 8 tháng hoặc thậm chí tính tròn là 1 năm.

Xem vua Lê xử tội xâm phạm mồ mả

(Kiến Thức) - Theo Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức), trường hợp “ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu, tượng thánh, áo mũ thờ thì xử chém, tịch thu điền sản sung công”.

Xem vua Lê xử tội xâm phạm mồ mả

Theo pháp luật hiện hành, cụ thể tại điều 246 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt đối với tội danh xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, tùy theo tính chất, mức độ có thể bị phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ đến một năm và cao nhất là bị phạt tù đến 5 năm. Đây thực ra không phải là vấn đề mới mà từ mấy trăm năm trước, pháp luật phong kiến đã có những quy định rõ ràng, cụ thể đối với việc xử lý các hành vi vi phạm tội danh này.

Trong đời sống xưa, ông cha ta thường nói: “Sống cái nhà, già cái mồ”, ý nói rằng khi còn sống mỗi người dân đều được pháp luật bảo vệ về chỗ ở và khi chết đi cũng được pháp luật bảo vệ “nơi an nghỉ cuối cùng”. Bản thân ai cũng mong được “mồ yên, mả đẹp”, tuy nhiên trong thực tế lại nảy sinh các yếu tố phức tạp khiến chính quyền phải ban bố các luật lệnh nhằm ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến mồ mả với những động cơ khác nhau, nhất là xử lý nghiêm những kẻ thất đức, đê hèn, ác độc.

Vào thế kỷ XI cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, nền kinh tế, văn hoá và xã hội Đại Việt đã có những bước tiến quan trọng tạo cơ sở thuận lợi cho hoạt động lập pháp phát triển, thể chế hoá và ngày càng hoàn thiện hơn. Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta là bộ Hình thư được ban hành năm Nhâm Ngọ (1042) trở thành dấu mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền; tiếc là bộ luật này cùng với các bộ luật khác được ban hành dưới triều Trần, Hồ như Quốc triều thống chế (1230), Hình luật thư (1290), Hình thư (1344), Đại Ngu quan chế hình luật (1401) đều bị giặc Minh đốt phá, cướp bóc trong thời gian chúng xâm lược nước ta, nay đã thất truyền hết vì vậy chúng ta không rõ được nội dung của nó cũng như các điều luật liên quan đến tội xâm phạm đến mồ mả được quy định như thế nào?

Từ khi nhà Hậu Lê được thành lập, đặc biệt là dưới thời gian trị vì của hoàng đế Lê Thánh Tông, hoạt động lập pháp được tích cực đẩy mạnh và mang lại những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực pháp luật và điển chế, đủ khả năng điều chỉnh giải quyết các quan hệ xã hội phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống. Đối với việc xử lý các hành vi xâm phạm mồ mả, triều đình đã ban hành các quy định khác nhau, được thay đổi, chỉnh sửa cho phù hợp để dần dần tạo thành luật lệ có tính ổn định, nghiêm minh. Tùy động cơ, mục đích, tính chất mà áp dụng các hình thức xử phạt như đánh roi, phạt trượng (đánh bằng gậy), phạt tiền, biếm (giáng chức, hạ tư cách), đồ (bắt đi làm người hầu hạ, phục dịch), lưu (đi đày), xử chém.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, ngày 19 tháng giêng năm Tân Sửu (1481) quan Đô cấp sự trung Vũ Mộng Khang dâng sớ tấu trình các việc, trong đó có phần đề xuất xử lý hành vi chặt phá tre, cây ở vườn và khu mộ đề nghị phạt đánh trượng và biếm; nếu cày và phá mộ của người xưa thì đều xử tội lưu. Vua Lê Thánh Tông xem tấu xong liền phê chuẩn. Đến ngày 29 tháng 4 năm Giáp Thìn (1484), vua lại định lệnh cấm mồ mả chôn sau không được che lấp hướng của những mồ mả chôn trước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết nguyên do như sau: “Trước đó, phó sứ Thanh hình hiến sát sứ ty xứ Yên Bang là Nghiêm Quang tâu rằng: "Mộ của quan viên và dân chúng chưa có phân biệt, cho nên kẻ dân mọn ngu tối thấy người có quan tước thì cho là do mạch đất mà được thế, khi có người nhà chết thì đua nhau chôn ở đằng trước, sát phạm đến nấm mồ. Con cháu nhà có mồ bị vi phạm, thường đem việc đó kiện tại cửa quan thì lại chưa có quy định riêng, nên cũng khó lòng xét rõ phải trái. Vậy có nên chiếu theo chức phẩm cao thấp mà quy định đất để mồ mả rộng hẹp hay không?". Đến đây Lễ bộ thượng thư Quách Đình Bảo bàn rằng: "Đất để mồ mả của quan viên và dân chúng trong nước, có khi là ruộng đất công, có khi là ruộng đất tư. Nếu kẻ nào lấy ruộng tư làm đất để mồ mả thì kích thước rộng hẹp cũng phải theo hướng đất trước sau cho phải. Người để mồ sau không được cậy là ruộng đất tư của mình mà chôn sát, che lấp mồ chôn trước. Kẻ nào cố ý vi phạm thì con cháu họ hàng nhà chôn trước kiện tại quan tư sở tại, bắt mồ chôn sau phải dời đi chỗ khác và bắt phải nộp tiền tạ lễ theo như luật pháp". Thấy hợp tình hợp lý, Lê Thánh Tông chuẩn y theo lời bàn ấy.

Khám nghiệm xương cốt (tranh khắc gỗ dân gian).
Khám nghiệm xương cốt (tranh khắc gỗ dân gian). 

Bấy giờ, để trọng đãi nhân tài khoa cử, triều đình còn phong chức tước cho cả cha mẹ những người đỗ đạt, vừa là để động viên họ gắng sức cho quốc gia lại có dụng ý nhắc nhở đến phần âm đức của cha mẹ đã nuôi dạy con cái trưởng thành, đó cũng là cách cho người con báo hiếu để vinh hiển phụ mẫu. Do trong dân gian quan niệm về địa trạch, phong thủy có quan hệ đến may rủi, hung cát của đời người, cho rằng mồ mả cha ông chôn ở nơi huyệt địa tốt, hình thế đẹp kết phát giúp con cháu vinh hiển phú quý nên dẫn tới tình trạng xâm lấn mồ mả của những gia đình giàu có, quyền lực vì tin rằng táng hài cốt người thân nhà mình ở gần vị trí đó cũng sẽ có ngày kết phát. Còn những gia đình quyền quý thì sợ nhất là người ngoài vô tình hay cố ý phạm vào long mạch mà phá hư ảnh hưởng tốt, khiến có thể mình và con cháu gặp những tai ương khủng khiếp. Bởi đó, sau khi bàn định với triều thần, Lê Thánh Tông cho vẽ hẳn hình một khuôn viên ngôi mộ gọi là “mộ địa bộ đồ” để kèm vào chỉ dụ cấm phạm tới địa ranh của mộ. Người nào có hành vi chặt hạ cây cối, xẻ rãnh đào mương hoặc lén chôn người chết trong vòng khuôn viên sẽ bị phạt tiền cỗ và nộp tiền tạ lỗi 20 quan. Từ nhà vua ban hành luật lệ đến dân chúng được luật lệ bảo vệ quyền lợi, tất cả đã có niềm tin vào ảnh hưởng huyền bí của âm phần, cho dù ảnh hưởng ấy có thực hay không, nhưng việc tin tưởng ấy chính là nòng cốt tinh thần cái tâm đức, cho đạo hiếu là đạo hệ trọng nhất của con người.

Theo sách Hồng Đức thiện chính thư thì tùy theo chức phẩm cao thấp mà khuôn viên mộ rộng hay hẹp: “Quan nhất phẩm thì bốn phía quanh mộ rộng 90 bước chân; Nhị phẩm 80 bước; Tam phẩm 70 bước; Tứ phẩm 60 bước; Ngũ phẩm 50 bước; Lục phẩm 40 bước; Thất phẩm 30 bước; Bát phẩm, Cửu phẩm và dân thường là 18 bước”. Sau đó, trong Quốc triều Hồng Đức niên gian chư cung thể thức có quy định thêm về nội dung hạn định phần mộ như sau: “Con nối dõi là quan Nhất, Nhị phẩm thì đất mộ được 2 mẫu; quan Ngũ, Lục phẩm được một mẫu; quan Thất, Bát phẩm thì được 40 thước 5 thốn; quan Cửu phẩm cho đến quan không có phẩm trật được 12 thước 5 thốn”.

Bên cạnh đó luật cũng rất nghiêm khắc đối với những vụ việc liên quan đến phần mộ, đặc biệt là xâm phạm lăng mộ của vua chúa, chẳng hạn “kẻ ăn trộm cây cối trong lăng nhà vua sẽ bị tội đánh 100 trượng, đồ 3 năm” (Hồng Đức thiện chính thư). Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) có một số điều luật quy định cách xử lý với các hành vi phạm tội xâm phạm lăng mộ vua chúa với các mức khác nhau: “Những kẻ không có phép mà lẻn vào quanh Thái miếu, vào cửa Sơn lăng, mộ vua thì bị tội đồ làm khao đinh. Leo tường vào thì bị tội đồ làm tượng phường binh” (điều 50); “Ai chặt tre, gỗ, đào đất ở các vườn lăng miếu thì bị lưu đầy châu ngoài” (điều 85); “Ai gây hỏa hoạn trong sơn lăng, mồ mả vua thì bị lưu đầy châu gần. Làm cháy lan đến cây cối thì bị xử thêm một bậc, bồi thường tổn hại ấy” (điều 86); trường hợp “ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu, tượng thánh, áo mũ thờ thì xử chém, tịch thu điền sản sung công” (điều 431).

Đối với việc xâm phạm mồ mả của quan chức, dân thường thì tùy theo trường hợp cụ thể mà có cách xử lý tương ứng, “nếu ăn trộm cây cối ở phần mộ nhà khác sẽ bị tội trượng 80. Ai cố ý phá hủy phần mộ của người khác sẽ bị phạt tiền tệ 30 quan, bị tội trượng 90 và bị khép tội lưu” (Hồng Đức thiện chính thư). Điều 358 bộ luật Hồng Đức quy định: “Nếu chặt đốn tre gỗ trong vườn mộ kẻ khác thì biếm một tư, phải nộp tiền tạ lỗi 10 quan. Lấn chiếm ranh giới mộ phần kẻ khác cũng xử như thế; phải đền những nơi lấn chiếm. Nếu xâm lấn mộ nhà quyền quý thì thêm tội”. Tại điều 359 quy định: “Cày cấy trộm vào đất mộ kẻ khác thì biếm một tư. Lấn phạm vào mộ thì biếm ba tư. Kẻ sai phạm không phải quan thì đồ làm khao đinh, nộp 30 quan tiền tạ lỗi. Chôn xác trộm vào đất kẻ khác thì bị phạt đánh 80 trượng; chôn vào đất mộ của người ta thì biếm một tư, buộc phải dời mả đi nơi khác. Nếu không biết kẻ chôn trộm là ai thì quan xã dời mả đi nơi khác; không trình quan xã mà dời mả chôn trộm thì bị phạt đánh 60 trượng”.

Sách Quốc triều Hồng Đức niên gian chư cung thể thức, là cuốn sách quy định về thể thức làm đơn từ, biên bản được công bố dưới thời Hồng Đức, trong đó có thể thức lập biên bản về việc xâm lấn phần mộ như sau:

“Vào giờ…, ngày…, tháng…, năm, triều đại

Xã trưởng xã…, huyện…, phủ… là mỗ thấy có người bản xã là Nguyễn mỗ trình bày người bản xã …là Trần mỗ đã cày lấn phần mộ làm cho mộ của ông nội bị nhỏ lại. Vì vậy xã trưởng Lê mỗ đã cùng mọi người đến đó, đồng thời bắt Trần mỗ đến theo, thấy thửa ruộng (bao nhiêu sào) có phần mộ ở giữa, bốn bên bị cày lấn, mộ bị thu nhỏ. Bốn phía đông, tây, nam, bắc chỉ còn (bao nhiêu tấc). Đúng là Trần mỗ đã cày lấn phần mộ, chứ không có chuyện gì khác.

Ngày…, giờ… lập biên bản

Xã trưởng Lê mỗ ký tên”.

Ngoài các mẫu làm đơn ra, Quốc triều Hồng Đức niên gian chư cung thể thức còn có một số quy định khác gọi là tạp loại, trong đó có những điều liên quan đến tội xâm phạm mồ mả được quy định như sau: “Để mộ trộm vào ruộng người khác, bị đánh 80 gậy, phải dời mộ, nếu không biết ai chôn trộm vào ruộng thì phải báo với xã quan để di dời. Nếu không báo bị đánh 80 gậy, chôn trộm vào ruộng người khác bị biếm 3 tư, không phải là người làm quan thì bị xử đồ làm khao đinh, truy thu 30 quan tiền”; “Cày lấn vào mộ phần, bị đánh 80 gậy, xử tội đồ, phải nộp tiền tạ 30 quan. Nếu cày, phá cũng xử như vậy”; “Chặt cây cối xung quanh mộ, bị phạt 10 quan tiền tạ lễ”; “Phần ruộng của mình đã bán rồi, trong ruộng có phần mộ đã được giới hạn phần đất 4 hướng xung quanh mộ là 18 bước. Nếu người mua lại cố ý hoặc lấn đất, hoặc phá thì phạt 33 quan tiền tạ lễ. Còn nếu mua lại, không nói tới phần mộ thì thế nào gọi là phá hoại, như vậy cũng khó, thậm chí còn nói khống sẽ bị trị, cũng bị định tội như tội lấn mộ”.

Dẫn giải tù nhân (tranh màu).
 Dẫn giải tù nhân (tranh màu).

Nếu hành vi xâm phạm là chủ ý vì mục đích hám lợi thì bị khép tội rất nặng, tại điều 442 bộ luật Hồng Đức quy định: “Ai đào trộm mồ mả người khác, lấy đồ vật, gạch ván thì xử lưu đi châu xa. Nếu đã cạy nắp quan tài thì xử chém, làm hư hay lấy trộm thi thể thì xử nặng tội thêm một bậc. Phải nộp tiền tạ tội như tội đánh người có quan tước”. Trường hợp phạm tội do vô ý thì mức xử phạt nhẹ hơn: “Đào đất gặp tử thi mà không chôn lại thì xử biếm hai tư, nếu đốt xông hang chuột, chồn ở mồ mả kẻ khác để cháy lan đến quan tài thì xử đồ, cháy tới tử thi thì đồ làm tượng phường binh. Nếu là mồ mả của bậc tôn trưởng từ hàng ti ma (người có họ với người chết, phải để tang 3 năm) trở lên thì mỗi bậc tăng một bậc tội. Con cháu đốt xông hang chuột, chồn ở mồ mả ông bà, cha mẹ; đầy tớ xông khói bắt chuột ở mồ mả của chủ thì đều xử đồ làm tượng phường binh. Làm cháy quan tài thì lưu đi châu gần, cháy tới tử thi thì lưu đi châu xa. Tất cả đều phải nộp tiền tạ lỗi và phạt tiền theo tội nặng nhẹ, nếu mộ nhà quyền quý thì xử riêng” (Điều 443).

Theo các quy định nói trên, chúng ta thấy pháp luật phong kiến đã có sự phân định rõ tính chất, mức độ, hành vi cũng như việc phạm tội do cố ý hay vô ý để tương ứng với nó là các hình thức xử phạt phù hợp, điều đó thể hiện sự tiến bộ nhất định. Có thể nói dù còn có những hạn chế, nhưng xét theo phương diện chung thì trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự được quy định trong các văn bản pháp luật ban hành dưới chế độ phong kiến, các quyền dân sự của cá nhân, chủ thể được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Trường hợp quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó được chính quyền bảo vệ khi các hành vi vi pháp pháp luật bị phát hiện hoặc họ có thể chủ động tự bảo vệ quyền của mình theo quy định bằng cách yêu cầu chính quyền có các biện pháp ngăn chặn, buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc kẻ phạm tội phải tạ lỗi, bồi thường thiệt hại về tinh thần và vật chất cho mình và gia đình.

Sự thật đầy bất ngờ về kỵ sĩ

(Kiến Thức) - Kỵ sĩ phải mặc những bộ áo giáp nặng 500 kg và có khả năng dùng nỏ bắn trúng mục tiêu cách xa 300m.

Sự thật đầy bất ngờ về kỵ sĩ
Nỏ của kỵ sĩ được phát minh vào thế kỷ XII. Nó được làm bằng thép nên có lực căng và tầm bắn chính xác cao hơn so với cung nỏ trước đó. Kỵ sĩ có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 300m. Để làm được như vậy, họ chỉ cần học trong vài tuần là có thể thành thục các kỹ năng bắn trúng mục tiêu với độ chuẩn xác cao.
Nỏ của kỵ sĩ được phát minh vào thế kỷ XII. Nó được làm bằng thép nên có lực căng và tầm bắn chính xác cao hơn so với cung nỏ trước đó. Kỵ sĩ có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 300m. Để làm được như vậy, họ chỉ cần học trong vài tuần là có thể thành thục các kỹ năng bắn trúng mục tiêu với độ chuẩn xác cao.  
Cầu thang hình xoắn ốc được xây dựng tại các lâu đài, tháp…trở thành một trong những nơi khó chiến đấu nhất đối với các kỵ sĩ. Bởi lẽ, khu vực đó khá nhỏ, hẹp và dốc. Nếu như các hiệp sĩ thực hiện một cuộc tấn công, họ sẽ gặp khó khăn trong việc di chuyển và sử dụng kiếm khi cận chiến.
Cầu thang hình xoắn ốc được xây dựng tại các lâu đài, tháp…trở thành một trong những nơi khó chiến đấu nhất đối với các kỵ sĩ. Bởi lẽ, khu vực đó khá nhỏ, hẹp và dốc. Nếu như các hiệp sĩ thực hiện một cuộc tấn công, họ sẽ gặp khó khăn trong việc di chuyển và sử dụng kiếm khi cận chiến.

Chân dung Tướng Giáp qua ống kính phóng viên quốc tế

(Kiến Thức) - Dù trên chiến trường hay trước ống kính của giới truyền thông quốc tế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thể hiện được tư thế của một nhà cầm quân kiệt xuất.

Chân dung Tướng Giáp qua ống kính phóng viên quốc tế
Một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi ông đang thể hiện niềm tin chiến thắng. Bức ảnh do phóng viên ảnh Bettman chụp ở Hà Nội ngày 29/5/1969.
Một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi ông đang thể hiện niềm tin chiến thắng. Bức ảnh do phóng viên ảnh Bettman chụp ở Hà Nội ngày 29/5/1969.
Một bức chân dung ít người biết đến của Đại tướng, do phóng viên Marc Riboud của hãng thông tấn Magnum thực hiện năm 1969.
 Một bức chân dung ít người biết đến của Đại tướng, do phóng viên Marc Riboud của hãng thông tấn Magnum thực hiện năm 1969.

Đọc nhiều nhất

Bàng hoàng cơ thể dị dạng của Pharaoh nổi tiếng Ai Cập

Bàng hoàng cơ thể dị dạng của Pharaoh nổi tiếng Ai Cập

(Kiến Thức) - Tutankhamun được đánh giá là nhà vua nổi tiếng Ai Cập cổ đại khi lên ngôi từ sớm và cũng chết trẻ. Tuy nhiên, vương triều của Tutankhamun hưng thịnh với nhiều thành tựu nổi bật. Thế nhưng, cơ thể dị dạng của ông hoàng này khiến nhiều người bị sốc.

Tin mới