Khám phá kho súng máy của bộ đội Việt Nam (kỳ 3)

(Kiến Thức) - Bên cạnh các mẫu súng máy Liên Xô (Nga), bộ đội Việt Nam còn sử dụng các kiểu súng Mỹ nhưng với số lượng rất ít.

Đại liên đa năng M60 (Mỹ)

Cũng như nhiều quốc gia thuộc khối Đồng Minh khi đối đầu với quân phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, người Mỹ đã thu được nhiều kinh nghiệm học hỏi từ những khẩu súng máy của người Đức. Họ quan tâm đến khẩu MG-42 trứ danh và muốn chuyển nó sang dùng cỡ đạn của mình nhưng kết quả là thất bại hoàn toàn, bởi vì ai đó “quên” rằng cỡ đạn .30-06 của Mỹ khoảng 6mm dài hơn đạn 7,92mm của Đức. Mặc dù thất bại những người Mỹ vẫn quyết tâm học hỏi và từ năm 1945 họ đã thử nghiệm nhiều mẫu súng thiết kế từ MG42.
M60 trên giá 3 chân giúp bắn chính xác hơn.
M60 trên giá 3 chân giúp bắn chính xác hơn.
Năm 1946, Quân đội Mỹ thử nghiệm mẫu súng máy T44, vốn kết hợp các ưu điểm từ hai loại súng máy nổi tiếng của Đức là cơ chế hoạt động của FG-42 và cơ chế nạp đạn dây của MG-42. Mặc dù vậy đến năm 1948 việc phát triển T44 đã bị đình lại và sau nhiều lần cải tiến, sang tên thì đến năm 1957 mẫu thử nghiệm T161 mới chính thức được chấp nhận và đưa vào biên chế Quân đội Mỹ với tên gọi “súng máy M60 7,62mm”.
Cũng như các loại súng máy khác, M60 sử dụng cơ chế trích khí, sử dụng đạn nạp vào bằng dây, làm mát bằng không khí với một chế độ bắn duy nhất là liên thanh, nòng súng có thể dễ dàng thay đổi. M60 có thể được khai hỏa từ máy bay, từ hỏa điểm hay kẹp nách để bắn, tuy vậy thì để đạt tầm bắn xa hiệu quả nhất, M60 nên được bắn khi sử dụng giá 2 chân hoặc 3 chân và bắn từng loạt 3-5 viên.
Khẩu súng này quá nặng và khó nhắm khi bắn mà không sử dụng biện pháp hỗ trợ, mặc dù khối lượng nặng cũng góp phần làm giảm độ giật. Tầm bắn hiệu quả của M60 đạt 1.100m khi bắn mục tiêu dạng diện ở mặt đất trên giá 3 chân và 800m khi dùng mội giá 2 chân, còn nếu mục tiêu đơn lẻ là 600m.
M60 có thể nhanh chóng thay nòng khi cần thiết.
M60 có thể nhanh chóng thay nòng khi cần thiết.
M60 được Mỹ sử dụng rộng rãi trong cuốc chiến tranh xâm lược Việt Nam với vai trò là hỏa lực cấp tiểu đội bộ binh, nó còn được gắn trên xe bọc thép M113 hay gắn trên tàu tuần tiễu lẫn máy bay trực thăng. M60 được lính Mỹ đặt tên lóng là “con heo” do kích thước kềnh càng của nó.
Khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam ảnh hưởng nhiều đến các loại vũ khí, M60 không phải là ngoại lệ, các chi tiết của súng dễ dàng bị gỉ sét nếu không được bảo dưỡng thường xuyên, thậm chí có thể bị hóc đạn khi đang khai hỏa. Lực lượng đặc nhiệm SEAL sử dụng phiên bản ngắn nòng của M60 tại đây, họ còn cất đạn trong ba lô và nối dây đạn đến súng, do đó có thể bắn hàng ngàn viên mà không phải lo nạp đạn.
Lính Mỹ sử dụng M60 trong chiến tranh Việt Nam.
Lính Mỹ sử dụng M60 trong chiến tranh Việt Nam.
Từ những năm 1980, tiếc thay M60 đã dần bị thay thế bởi trung liên FN Minimi/M249 SAW khi nhu cầu một loại súng máy tốc độ bắn cao và gọn nhẹ lên ngôi dù cho có giảm bớt tính năng sức mạnh của khẩu súng. Mặc dù nhiều binh sĩ Mỹ không đồng tình như vậy khi cho rằng sức mạnh của cỡ đạn 7,62mm vẫn còn rất cần thiết và M60 vẫn còn được sử dụng trong các chức năng như gắn trên phương tiện cơ giới.
Nhưng tất cả đi đến hồi kết khi vào năm 1994, Quân đội Mỹ ra chương trình chọn loại súng máy hạng trung với hai ứng viên là M60E3 và FN MAG, cuộc đua diễn ra ở hai hạng mục chính: Số viên đạn bắn được giữa mỗi lần hóc đạn (MRBS) và số đạn bắn được giữa mỗi lần phải sửa chữa (MRBF).
Tổng cộng, mỗi khẩu bắn 50.000 viên, kết quả là M60 có 846 MRBS và 1.669 MRBF, so với 2.962 MRBS và 6.442 MRBF của FN MAG/M240, vậy là FN MAG/M240 đã trở thành người thắng cuộc và được chấp nhận đưa vào biên chế. Mặc dù M60 nhẹ hơn, có độ cân bằng tốt hơn, dễ điều khiển hơn và có sẵn nhiều trong kho, nó bị loại bỏ đơn giản là vì nó kém tin cậy hơn.
M60E4 là mẫu M60 mới nhất hiện tại.
M60E4 là mẫu M60 mới nhất hiện tại.
Sau chiến tranh chống Mỹ, Quân đội Nhân dân Việt Nam thu được một số lượng rất nhiều đại liên “đuôi cá” M60 và nó đã được quân đội ta sử dụng rộng rãi vài năm sau đó.
Với ưu điểm tốc độ bắn nhanh, độ chụm tốt nhưng dễ hóc đạn nếu không được bảo quản tốt, tiếc rằng với việc cỡ đạn 7,62x51mm khác với cỡ đạn mà Việt Nam sản xuất nên M60 dần bị loại bỏ và hiện nay M60 (nếu có) chỉ còn số lượng rất ít và chúng ta thường gặp M60 trong các bảo tàng.
Bộ đội Việt Nam với xe jeep gắn M60 ở Campuchia
Bộ đội Việt Nam với xe jeep gắn M60 ở Campuchia
Thông số kỹ thuật

Cỡ nòng: 7,62x51mm NATO

Khối lượng: 10,4kg trên giá 2 chân - 17 kg nếu sử dụng thêm giá 3 chân

Dài: 1067mm

Chiều dài nòng: 560mm

Tốc độ bắn: Tùy chỉnh, 550 viên/phút

Tầm hiệu quả: 600m

Sơ tốc đầu nòng: 853m/s

Đại liên đa năng FN MAG (Bỉ)
Khẩu súng máy MAG (Mitrailleuse d'Appui General – Súng máy đa chức năng) được phát triển bởi nhà sản xuất vũ khí hạng nhẹ nổi tiếng FN Herstal (nơi sản sinh ra khẩu FN Minimi 5,56mm huyền thoại) đến từ nước Bỉ trong những năm 1950, với vai trò là một khẩu súng máy đa chức năng có thể sử dụng như một khẩu súng máy hạng nhẹ với giá 2 chân, hay một khẩu súng máy hạng trung trên giá 3 chân hoặc gắn trên xe tăng, xe quân sự, máy bay trực thăng (nguyên lý phát triển giống đại liên PKM).
Các thành phần chính trên FN MAG.
Các thành phần chính trên FN MAG.
Thiết kế của FN MAG về cơ bản là cơ chế hoạt động dạng Browning, lấy từ khẩu trung liên M1918 BAR, đảo ngược mặt trên xuống dưới và sử dụng tiếp đạn bằng dây đạn lẫn cò súng lấy từ khẩu đại liên huyền thoại MG-42 Đức quốc xã. Thiết kế này sử dụng nhiều thép dập nhiều hết mức có thể để giảm công lao động và giá thành, kết quả là khẩu súng trông khá góc cạnh nhưng rất “thực dụng”. Bởi cho dù vẻ ngoài trông không đẹp lắm nhưng đảm bảo độ tin cậy và hiệu quả đã được kiểm nghiệm, đã được sử dụng trong quân đội hàng chục quốc gia trên thế giới bao gồm Bỉ, Anh, Mỹ (với tên gọi M240), Israel và nhiều quốc gia khác.
FN MAG/M240 được lắp đặt trên tất cả các loại xe từ xe tăng, bọc thép đến xe tuần tra, trực thăng… Có thể nói rằng FN MAG cũng với dòng PKM là hai khẩu súng máy đa năng được sử dụng nhiều nhất trên thế giới.
M240 (tên Quân đội Mỹ đặt cho FN MAG) gắn sau đuôi "chim ưng biển" V-22 Osprey sẵn sàng khai hỏa.
M240 (tên Quân đội Mỹ đặt cho FN MAG) gắn sau đuôi "chim ưng biển" V-22 Osprey sẵn sàng khai hỏa.
Về cơ chế hoạt động, FN MAG sử dụng cơ chế trích khí, làm mát bằng không khí, nạp đạn bằng dây đạn. Nòng súng có thể dễ dàng thay thế với tay cầm phụ giúp việc thao tác thao lắp nòng súng nóng bỏng được dễ dàng hơn. FN MAG sử dụng các loại dây đạn tự rã có độ dài khác nhau như dây đạn loại m13 của Mỹ (loại tiêu chuẩn của NATO). Tốc độ bắn của súng có thể tùy chỉnh giữa “thấp” (cỡ 650 viên/phút) và “cao” (khoảng 950 viên/phút), tùy thuộc vào tính huống tác chiến, và khẩu súng máy này chỉ có một chế độ bắn duy nhất là liên thanh.
Giá hai chân đơn giản bằng nhôm được gắn vào trục xy-lanh giảm giật và ở dưới thân súng có chỗ kết nối giúp gắn FN MAG vào các mấu gắn lên phương tiện, thiết bị khác, ví dụ như giá đỡ ba chân khi cần thiết hay gắn lên xe. Thước ngắm tiêu chuẩn trên FN MAG là thước ngắm dạng cơ khí thông thường có thêm chỉnh lượng gió, nhưng các phiên bản FN MAG sau này có các rail Picatinny giúp lắp kính ngắm quang học, kính ngắm đêm thay cho ngắm bằng cơ khí.
Lính Mỹ với M240 gắn kính ngắm và rail Picatinny trên giá 3 chân.
Lính Mỹ với M240 gắn kính ngắm và rail Picatinny trên giá 3 chân.
Phiên bản tiêu chuẩn sử dụng báng gỗ (lúc mới đầu) và báng nhựa tổng hợp (sau này), ngoài ra các phiên bản FN MAG/M240 khác như M240C súng máy đồng trục sử dụng cò bắn bằng điện thay cho cò thường, hay bản M240D gắn trên trên xe hay vị trí cố định không sử dụng tay cầm mà sử dụng cơ cấu bắn bằng 2 tay giống DShKM.
Cũng cần nói thêm rằng, M240 đã chính thức hạ bệ dòng súng M60 với khẩu M60E4 năm 1995 để trở thành đại liên tiêu chuẩn của Quân đội Mỹ, lính thủy đánh bộ và đặc nhiệm Mỹ, thậm chí còn sử dụng M240 trước đó nữa vào năm 1990 thay cho khẩu M60E3.
Đặc nhiệm Mỹ với ụ súng 2 khẩu đại liên M240 tạo nên màn hỏa lực đáng sợ.
Đặc nhiệm Mỹ với ụ súng 2 khẩu đại liên M240 tạo nên màn hỏa lực đáng sợ.
Theo một số nguồn tin, Quân đội Việt Nam có nhập một số bản FN MAG/M240 tiêu chuẩn, nhưng dường như số súng này dùng để nhóm thi bắn súng quốc tế sử dụng để “luyện” tay nghề hơn là sử dụng trong các hoạt động tác chiến. Nhưng biết đâu trong tương lai loại súng này sẽ có mặt nhiều hơn trong trang bị khi Quân đội Việt Nam tham gia các hoạt động tác chiến gìn giữ hòa bình ở nước ngoài, nơi có nhu cầu đồng bộ hậu cần với các quốc gia vốn thường sử dụng súng FN MAG/M240.

Thông số kỹ thuật

Cỡ nòng: 7,62x51mm NATO

Khối lượng: 11-13kg trên giá 2 chân (tùy phiên bản), 21 kg nếu sử dụng thêm giá 3 chân

Dài: 1260mm

Chiều dài nòng: 545mm

Tốc độ bắn: Tùy chỉnh, 650-750viên/phút và 950-1000 viên/phút

Tầm hiệu quả: 800m

Sơ tốc đầu nòng: 840m/s

“Kho” súng tiểu liên đa dạng của Việt Nam

Trong ảnh là súng tiểu liên MAS-38 do nhà máy vũ khí St Etience của Pháp sản xuất từ năm 1935, chính thức đưa vào trang bị từ 1938. MAS-38 được quân đội viễn chinh Pháp sử dụng phổ biến với số lượng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương. Hàng ngàn khẩu bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu và được sử dụng trong chiến đấu dưới cái tên “tiểu liên Mát”. MAS-38 dùng cỡ đạn 7,62x20mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50-100m.
Trong ảnh là súng tiểu liên MAS-38 do nhà máy vũ khí St Etience của Pháp sản xuất từ năm 1935, chính thức đưa vào trang bị từ 1938. MAS-38 được quân đội viễn chinh Pháp sử dụng phổ biến với số lượng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương. Hàng ngàn khẩu bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu và được sử dụng trong chiến đấu dưới cái tên “tiểu liên Mát”. MAS-38 dùng cỡ đạn 7,62x20mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50-100m.

Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội chủ lực lúc đó.
Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội chủ lực lúc đó.

Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, MAT-49 tiếp tục được các đơn vị Quân giải phóng miền Nam và dân quân du kích sử dụng với số lượng lớn. Năm 1962, quân giới Việt Nam thực hiện cải biên MAT-49, thay nòng súng nguyên bản bằng nòng tiểu liên K50, thay đầu ngắm và cải tiến băng đạn để lắp đạn K50. Trong 2 năm 1962-1963, trên 2.000 khẩu MAT-49 được cải tiến và đưa vào chi viện cho miền Nam.
Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, MAT-49 tiếp tục được các đơn vị Quân giải phóng miền Nam và dân quân du kích sử dụng với số lượng lớn. Năm 1962, quân giới Việt Nam thực hiện cải biên MAT-49, thay nòng súng nguyên bản bằng nòng tiểu liên K50, thay đầu ngắm và cải tiến băng đạn để lắp đạn K50. Trong 2 năm 1962-1963, trên 2.000 khẩu MAT-49 được cải tiến và đưa vào chi viện cho miền Nam.

Thông số MAT-49 nguyên bản/MAT-49 cải tiến gồm: cỡ đạn 9x19mm/7,62x25mm (hộp tiếp đạn 32 viên); tốc độ bắn 600/900 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 150m.
Thông số MAT-49 nguyên bản/MAT-49 cải tiến gồm: cỡ đạn 9x19mm/7,62x25mm (hộp tiếp đạn 32 viên); tốc độ bắn 600/900 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 150m.

Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm 1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan, Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên), tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm 1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan, Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên), tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Tiểu liên Thompson do nhà thiết kế J.T. Thompson phát triển từ trong Chiến tranh thế giới thứ 1 và trang bị cho Quân đội Mỹ sử dụng rộng rãi trong nhiều năm. Sau này, chúng được Quân đội Pháp sử dụng nhiều trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ đội ta thu giữ được hàng nghìn khẩu loại này và trang bị để đánh Pháp. Bên cạnh những biến thể của Mỹ, Việt Nam còn sử dụng biến thể do Trung Quốc chế tạo và một số ít do các xưởng quân giới tự sản xuất.
Tiểu liên Thompson do nhà thiết kế J.T. Thompson phát triển từ trong Chiến tranh thế giới thứ 1 và trang bị cho Quân đội Mỹ sử dụng rộng rãi trong nhiều năm. Sau này, chúng được Quân đội Pháp sử dụng nhiều trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ đội ta thu giữ được hàng nghìn khẩu loại này và trang bị để đánh Pháp. Bên cạnh những biến thể của Mỹ, Việt Nam còn sử dụng biến thể do Trung Quốc chế tạo và một số ít do các xưởng quân giới tự sản xuất.

Thông số biến thể Thompson (M1921/M1928/M1) gồm: dùng cỡ đạn 11,23x23mm (hộp tiếp đạn 20/30/50/100 viên cho biến thể M1921/M1928 hoặc 20/30 viên cho M1); tốc độ bắn 1.000/700/700 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 100-150m.
Thông số biến thể Thompson (M1921/M1928/M1) gồm: dùng cỡ đạn 11,23x23mm (hộp tiếp đạn 20/30/50/100 viên cho biến thể M1921/M1928 hoặc 20/30 viên cho M1); tốc độ bắn 1.000/700/700 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 100-150m.

Tiểu liên M3 được Mỹ nghiên cứu phát triển từ đầu năm 1941 với ý định thiết kế một loại súng đơn giản, rẻ tiền và dễ sản xuất hơn nhằm thay thế cho tiểu liên Thompson. Trong kháng chiến chống Pháp, ta thu được một số lượng không nhỏ tiểu liên M3, cùng với đó là một số biến thể do Trung Quốc “sao chép”.
Tiểu liên M3 được Mỹ nghiên cứu phát triển từ đầu năm 1941 với ý định thiết kế một loại súng đơn giản, rẻ tiền và dễ sản xuất hơn nhằm thay thế cho tiểu liên Thompson. Trong kháng chiến chống Pháp, ta thu được một số lượng không nhỏ tiểu liên M3, cùng với đó là một số biến thể do Trung Quốc “sao chép”.

Đặc biệt, một số biến thể kiểu 37 được quân giới Việt Nam cải tiến gắn thêm nòng giảm thanh để trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động và thường được biết đến dưới cái tên “tiểu liên Mã Lai”. Loại tiểu liên M3 dùng đạn 11,23x23mm (hoặc 9x19mm với một số biến thể), hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 450 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50m.
Đặc biệt, một số biến thể kiểu 37 được quân giới Việt Nam cải tiến gắn thêm nòng giảm thanh để trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động và thường được biết đến dưới cái tên “tiểu liên Mã Lai”. Loại tiểu liên M3 dùng đạn 11,23x23mm (hoặc 9x19mm với một số biến thể), hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 450 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50m.

Tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như kiểu 1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến tranh Việt Nam, loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị biệt kích của Pháp, Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Một số ít đã bị quân dân Việt Nam tịch thu trong chiến đấu và sử dụng lại. Madsen dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút (hoặc 550 phát/phút với biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.
Tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như kiểu 1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến tranh Việt Nam, loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị biệt kích của Pháp, Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Một số ít đã bị quân dân Việt Nam tịch thu trong chiến đấu và sử dụng lại. Madsen dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút (hoặc 550 phát/phút với biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.

Tiểu liên PPSh-41 do Liên Xô phát triển từ năm 1940 và sản xuất hàng loạt từ năm 1942. Trong 5 năm, trên 5 triệu khẩu PPSh-41 được sản xuất và viện trợ rộng rãi cho các quốc gia đồng minh. Từ năm 1951, Việt Nam tiếp nhận những khẩu PPSh-41 đầu tiên là phiên bản kiểu 50 do Trung Quốc sản xuất và loại súng này nhanh chóng trở thành một trong những kiểu tiểu liên chính của bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp dưới tên gọi K50.
Tiểu liên PPSh-41 do Liên Xô phát triển từ năm 1940 và sản xuất hàng loạt từ năm 1942. Trong 5 năm, trên 5 triệu khẩu PPSh-41 được sản xuất và viện trợ rộng rãi cho các quốc gia đồng minh. Từ năm 1951, Việt Nam tiếp nhận những khẩu PPSh-41 đầu tiên là phiên bản kiểu 50 do Trung Quốc sản xuất và loại súng này nhanh chóng trở thành một trong những kiểu tiểu liên chính của bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp dưới tên gọi K50.

Tiểu liên K50 được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, sau đó còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, được các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.
Tiểu liên K50 được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, sau đó còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, được các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.

Đặc biệt, đầu năm 1962, để phục vụ yêu cầu giữ bí mật nguồn cung cấp vũ khí cho miền Nam, quân giới Việt Nam thay vỏ bọc mới, thay báng gỗ bằng báng rút bằng thép để cải tiến cho K50 có hình dạng tương tự tiểu liên MAT-49 của Pháp. Tính đến năm 1968, trên 10.000 khẩu K50 được cải tiến (thường được phương Tây biết đến dưới cái tên K50M) và đưa vào chi viện cho miền Nam. Súng PPSh-41/K50 dùng cỡ đạn 7,62x25mm, tốc độ bắn 900/700 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-250m.
Đặc biệt, đầu năm 1962, để phục vụ yêu cầu giữ bí mật nguồn cung cấp vũ khí cho miền Nam, quân giới Việt Nam thay vỏ bọc mới, thay báng gỗ bằng báng rút bằng thép để cải tiến cho K50 có hình dạng tương tự tiểu liên MAT-49 của Pháp. Tính đến năm 1968, trên 10.000 khẩu K50 được cải tiến (thường được phương Tây biết đến dưới cái tên K50M) và đưa vào chi viện cho miền Nam. Súng PPSh-41/K50 dùng cỡ đạn 7,62x25mm, tốc độ bắn 900/700 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-250m.

Tiểu liên PPS-43 do Liên Xô phát triển từ năm 1942 nhằm đáp ứng yêu cầu về một loại tiểu liên gọn nhẹ, rẻ tiền, dễ chế tạo trang bị cho các đơn vị xe tăng, lính dù và trinh sát của Liên Xô. Trong thời gian 1943-1946, trên 2 triệu khẩu được chế tạo, trang bị cho Hồng quân cùng nhiều quốc gia đồng minh của Liên Xô.
Tiểu liên PPS-43 do Liên Xô phát triển từ năm 1942 nhằm đáp ứng yêu cầu về một loại tiểu liên gọn nhẹ, rẻ tiền, dễ chế tạo trang bị cho các đơn vị xe tăng, lính dù và trinh sát của Liên Xô. Trong thời gian 1943-1946, trên 2 triệu khẩu được chế tạo, trang bị cho Hồng quân cùng nhiều quốc gia đồng minh của Liên Xô.

Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn PPS-43 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đưa vào sử dụng phổ biến trong giai đoạn trước 1967 dưới tên gọi K43. Loại súng này còn được các lực lượng vũ trang địa phương sử dụng trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm (hộp tiếp đạn 35 viên), tốc độ bắn 500-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 200m.
Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn PPS-43 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đưa vào sử dụng phổ biến trong giai đoạn trước 1967 dưới tên gọi K43. Loại súng này còn được các lực lượng vũ trang địa phương sử dụng trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm (hộp tiếp đạn 35 viên), tốc độ bắn 500-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 200m.

Tiểu liên MP-38/40 do Đức nghiên cứu phát triển từ những năm 1930 để trang bị cho quân đội nước này dùng phổ biến trong Chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân Pháp sử dụng số lượng lớn tiểu liên MP-38/40. Quân dân Việt Nam thu được nhiều khẩu và sử dụng lại trong chiến đấu cho đến tận thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ. Súng dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 500 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100m.
Tiểu liên MP-38/40 do Đức nghiên cứu phát triển từ những năm 1930 để trang bị cho quân đội nước này dùng phổ biến trong Chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân Pháp sử dụng số lượng lớn tiểu liên MP-38/40. Quân dân Việt Nam thu được nhiều khẩu và sử dụng lại trong chiến đấu cho đến tận thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ. Súng dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 500 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100m.

Tiểu liêu SA25 và SA26 do Tiệp Khắc phát triển sau Chiến tranh thế giới 2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số phiên bản báng gập nhưng loại súng này xuất hiện và được sử dụng không nhiều.
Tiểu liêu SA25 và SA26 do Tiệp Khắc phát triển sau Chiến tranh thế giới 2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số phiên bản báng gập nhưng loại súng này xuất hiện và được sử dụng không nhiều.

Thông số kỹ thuật tiểu liên SA25/SA26 gồm: dùng cỡ đạn 9x19/7,62x25mm; hộp tiếp đạn 24-40 viên đối với SA25 và 32 viên với SA26; tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-200m.
Thông số kỹ thuật tiểu liên SA25/SA26 gồm: dùng cỡ đạn 9x19/7,62x25mm; hộp tiếp đạn 24-40 viên đối với SA25 và 32 viên với SA26; tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-200m.

Tiểu liên Skorpion kiểu 1961 do Tiệp Khắc nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số tiểu liên Skorpion và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công biệt động dưới tên gọi K61. Súng dùng cỡ đạn 7,62x17mm (hộp tiếp đạn 10-20 viên), tốc độ bắn 850 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 25-50m.
Tiểu liên Skorpion kiểu 1961 do Tiệp Khắc nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số tiểu liên Skorpion và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công biệt động dưới tên gọi K61. Súng dùng cỡ đạn 7,62x17mm (hộp tiếp đạn 10-20 viên), tốc độ bắn 850 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 25-50m.

Tiểu liên kiểu 63 hay PM-63 do Ba Lan phát triển từ những năm 1950-1960. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Ba Lan viện trợ một số tiểu liên PM-63 và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động dưới tên gọi P63. Súng dùng cỡ đạn 9x18mm, hộp tiếp đạn 15-25 viên, tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-150m.
Tiểu liên kiểu 63 hay PM-63 do Ba Lan phát triển từ những năm 1950-1960. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Ba Lan viện trợ một số tiểu liên PM-63 và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động dưới tên gọi P63. Súng dùng cỡ đạn 9x18mm, hộp tiếp đạn 15-25 viên, tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-150m.

Tiểu liên Type 64 do Trung Quốc phát triển dành cho lực lượng trinh sát, biệt kích. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận một số lượng nhỏ Type 64 trang bị cho lực lượng công an vũ trang dưới tên gọi K64. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm, hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 1.300 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Type 64 do Trung Quốc phát triển dành cho lực lượng trinh sát, biệt kích. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận một số lượng nhỏ Type 64 trang bị cho lực lượng công an vũ trang dưới tên gọi K64. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm, hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 1.300 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Báo TQ “để ý” súng mới của Hải quân Đánh bộ Việt Nam

(Kiến Thức) - Thời báo Hoàn Cầu mới đây đã đăng tải một số bức ảnh về loại súng mới trang bị của lực lượng Hải quân Đánh bộ Việt Nam.

Báo Trung Quốc thời gian gần đây đăng tải nhiều chùm ảnh hoặc có bài viết đánh giá về vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau những thông tin quan tâm tới phòng không, tàu chiến, tên lửa, mới đây nhất Thời báo Hoàn Cầu đăng tải bức ảnh về lực lượng Hải quân Đánh bộ Việt Nam.
 Báo Trung Quốc thời gian gần đây đăng tải nhiều chùm ảnh hoặc có bài viết đánh giá về vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau những thông tin quan tâm tới phòng không, tàu chiến, tên lửa, mới đây nhất Thời báo Hoàn Cầu đăng tải bức ảnh về lực lượng Hải quân Đánh bộ Việt Nam.

“Lính mới” Hải quân Việt Nam luyện bắn súng AK

Xem chiến sĩ mới nhập ngũ thuộc Lữ đoàn 957, Vùng 4 Hải quân luyện tập và thực hành bắn kiểm tra lần lượt 3 tư thế bắn súng Tiểu liên AK.

Đội hình cơ động ra thao trường.
 Đội hình cơ động ra thao trường.

Đọc nhiều nhất

Tin mới