Cứu bệnh nhân vỡ tĩnh mạch thực quản

(Kiến Thức) - Bệnh viện 354 thường xuyên phải cấp cứu cho các bệnh nhân bị nôn ra máu, đi ngoài phân đen do xơ gan gây giãn tĩnh mạch thực quản (TMTQ)... 

Cứu bệnh nhân vỡ tĩnh mạch thực quản
Gần 2 năm 7 lần cấp cứu
Mới 52 tuổi, nhưng anh Phùng Văn N. (52 tuổi ở Cầu Diễn, Hà Nội) đã bị xơ gan. Anh liên tục phải đi cấp cứu vì nôn ra máu tươi, đi ngoài phân đen do giãn, vỡ TMTQ. Tính tổng gần 2 năm năm nay anh đã phải nhập viện 7 lần, thắt vòng cao su TMTQ 2 lần.  BSCK II Vũ Đức Chung, Trưởng khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện 354 cho biết, trường hợp như của anh H. không phải là cá biệt, gần như tháng nào khoa cũng gặp vài ca, thậm chí có ngày có tới 2 - 3 bệnh nhân. 
Theo BSCK II Vũ Đức Chung, xơ gan là một trong những bệnh lý rất phổ biến hiện nay với các biến chứng thường gặp như vỡ giãn TMTQ, cổ trướng, nhiễm khuẩn màng bụng tiên phát, hội chứng gan thận, bệnh não gan... Với giãn TMTQ, có nhiều mức độ tổn thương, thường được phát hiện khi có chảy máu đường tiêu hóa, hoặc qua nội soi dạ dày ống mềm. Phần lớn bệnh nhân đến viện trong tình trạng chảy máu đường tiêu hóa nặng, thậm chí đe dọa sinh mạng người bệnh nếu không được xử lý kịp thời.
Nguyên nhân xơ gan gây vỡ, giãn TMTQ là do gan là cơ quan trữ máu, điều hòa hoạt động của tim, làm giảm áp trong tĩnh mạch chủ dưới mỗi khi áp lực đó lên cao. Nhưng mao mạch gan lại gây một trở lực lớn cho tuần hoàn gan, cho nên áp lực tĩnh mạch cửa bình thường cao hơn áp lực ở tất cả các tĩnh mạch khác. Nguyên nhân gây tăng áp lực tĩnh mạch do xơ gan là vì hệ thống tĩnh mạch cửa bị tắc ở một đoạn nào đó trước xoang hay sau xoang, do luồng máu đến nhiều hoặc tăng áp tĩnh mạch cửa không rõ nguyên nhân...
BSCK II Vũ Đức Chung thăm khám bệnh nhân xơ gan bị giãn TMTQ.
BSCK II Vũ Đức Chung thăm khám bệnh nhân xơ gan bị giãn TMTQ. 
Dễ tái phát và tỷ lệ tử vong cao
Theo BSCK II Vũ Đức Chung, có đến 50% người mắc bệnh xơ gan bị giãn TMTQ. Mỗi năm, số người bị giãn TMTQ tăng khoảng 5 - 15%.  Đặc biệt, khi giãn TMTQ chuyển sang biến chứng nặng, TMTQ sẽ bị vỡ. Nếu không đi kèm xơ gan, mức độ tử vong từ 5 - 10%. Nếu kèm theo xơ gan, tỷ lệ tử vong lên tới 40 - 70%. Vì vậy, khi bệnh nhân nôn ra máu nghĩa là TMTQ bị vỡ, phải nhanh chóng đưa đến bệnh viện. 
Có nhiều phương pháp điều trị giãn tĩnh mạch thực quản, việc chỉ định phương pháp điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản là nguyên nhân gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa, mức độ đáp ứng của người bệnh... Chiến lược điều trị cần ưu tiên phòng ngừa vỡ, giãn TMTQ và phòng chảy máu trở lại bằng việc điều trị làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa và dùng các biện pháp tác động trực tiếp lên tĩnh mạch như tiêm xơ, thắt TMTQ bằng vòng cao su...

Phòng giãn tĩnh mạch thực quản

Phòng giãn tĩnh mạch thực quản
(Kienthuc.net.vn) - Giãn tĩnh mạch thực quản là hội chứng hay gặp ở người bệnh xơ gan, chiếm tới 50%. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bị vỡ giãn tĩnh mạch thực quản nếu có xơ gan khoảng 40 - 70%, tuỳ thuộc vào mức độ suy gan.

Chặn chảy máu cấp tính do vỡ tĩnh mạch thực quản

Chặn chảy máu cấp tính do vỡ tĩnh mạch thực quản
- Bệnh nhân xơ gan do viêm gan virus và do rượu có biến chứng chảy máu tiêu hóa ngày càng nhiều, mất nhiều thời gian nằm viện vì chảy máu tái diễn nhiều lần do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản dạ dày. Phương pháp can thiệp nội mạch tạo Shunt cửa chủ trong gan qua tĩnh mạch cảnh (TIPS) đạt hiệu quả cao trong kiểm soát chảy máu cấp tính và ngăn chặn chảy máu tái phát.

Can thiệp TIPS cho bệnh nhân chảy máu thực quản dạ dày do xơ gan.
Can thiệp TIPS cho bệnh nhân chảy máu thực quản dạ dày do xơ gan.

Đây là một kỹ thuật khó, đòi hỏi phải có thiết bị và tay nghề cao. Trước can thiệp, bệnh nhân được dùng thuốc an thần và nhịn ăn 6 giờ. Khi thực hiện, bệnh nhân được vô cảm bằng gây mê nội khi quản.

Phân biệt bệnh sởi và rubella

(Kiến Thức) - Rubella đôi khi bị nhầm lẫn với bệnh rubeola - một cách gọi khác của bệnh sởi ở các nước nói tiếng Anh song thực chất hai bệnh này không hề giống nhau.

Phân biệt bệnh sởi và rubella
Về nguyên nhân. Sởi hình thành do siêu virus sởi gây nên. Trong khi đó, rubella bắt nguồn từ virus rubella. Cả hai bệnh đều lây lan qua đường hô hấp và có yếu tố dịch tễ và biểu hiện lâm sàng khá tương đồng. Tuy vậy mức độ biểu hiện triệu chứng và diễn biến lâm sàng, nhất là các biến chứng có thể có những biểu hiện không giống nhau.

Về nguyên nhân. Sởi hình thành do siêu virus sởi gây nên. Trong khi đó, rubella bắt nguồn từ virus rubella. Cả hai bệnh đều lây lan qua đường hô hấp và có yếu tố dịch tễ và biểu hiện lâm sàng khá tương đồng. Tuy vậy mức độ biểu hiện triệu chứng và diễn biến lâm sàng, nhất là các biến chứng có thể có những biểu hiện không giống nhau.

Sởi thường gặp ở trẻ từ một tuổi trở lên, thời gian nung bệnh từ bảy đến mười ngày. Bệnh khởi phát trong 2 đến 3 ngày với các triệu chứng như: sốt đột ngột 38 độ C, mắt ướt, ho, chảy nước mũi, tiêu chảy...
Sởi thường gặp ở trẻ từ một tuổi trở lên, thời gian nung bệnh từ bảy đến mười ngày. Bệnh khởi phát trong 2 đến 3 ngày với các triệu chứng như: sốt đột ngột 38 độ C, mắt ướt, ho, chảy nước mũi, tiêu chảy...
Khi bệnh toàn phát, bệnh nhân có thể sốt cao 38,5 đến 39 độ C, mệt mỏi, ban sởi dày, mịn, xuất hiện đầu tiên ở sau tai rồi lan rộng. Bệnh lui khi hết sốt, ban mất dần theo trình tự mọc và để lại vết thâm trên da.
Khi bệnh toàn phát, bệnh nhân có thể sốt cao 38,5 đến 39 độ C, mệt mỏi, ban sởi dày, mịn, xuất hiện đầu tiên ở sau tai rồi lan rộng. Bệnh lui khi hết sốt, ban mất dần theo trình tự mọc và để lại vết thâm trên da. 
Trong khi đó, rubella có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nung bệnh từ 12 đến 14 ngày, khởi phát với dấu hiệu tương tự như bệnh cúm. Các triệu chứng ban đầu là phát ban trên mặt, sau đó lan đến mình, tay, chân và thường giảm đi sau ba ngày. Những triệu chứng khác bao gồm sốt nhẹ, sưng hạch, đau khớp, nhức đầu và viêm kết mạc. Sưng hạch bạch huyết và các tuyến có thể kéo dài tới một tuần và sốt hiếm khi tăng lên trên 38 độ C.
Trong khi đó, rubella có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nung bệnh từ 12 đến 14 ngày, khởi phát với dấu hiệu tương tự như bệnh cúm. Các triệu chứng ban đầu là phát ban trên mặt, sau đó lan đến mình, tay, chân và thường giảm đi sau ba ngày. Những triệu chứng khác bao gồm sốt nhẹ, sưng hạch, đau khớp, nhức đầuviêm kết mạc. Sưng hạch bạch huyết và các tuyến có thể kéo dài tới một tuần và sốt hiếm khi tăng lên trên 38 độ C.
Tuy nhiên, nốt ban trên da có dạng chấm đỏ rải rác và không mọc theo bất kỳ quy luật nào. Khi bệnh lui thường hết sốt, ban bay nhanh không theo quy luật, không để lại dấu vết trên da, hạch trở về bình thường muộn hơn, thường sau một tuần.
Tuy nhiên, nốt ban trên da có dạng chấm đỏ rải rác và không mọc theo bất kỳ quy luật nào. Khi bệnh lui thường hết sốt, ban bay nhanh không theo quy luật, không để lại dấu vết trên da, hạch trở về bình thường muộn hơn, thường sau một tuần.
Về biến chứng. Sởi đặc biệt nghiêm trọng với viêm phổi, viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm xoang, tiêu chảy, thậm chí là tử vong.
Về biến chứng. Sởi đặc biệt nghiêm trọng với viêm phổi, viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm xoang, tiêu chảy, thậm chí là tử vong.
Các biến chứng của rubella chủ yếu là đau và sưng khớp, viêm não, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm thần kinh, gây dị dạng thai nhi ở phụ nữ có thai.
Các biến chứng của rubella chủ yếu là đau và sưng khớp, viêm não, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm thần kinh, gây dị dạng thai nhi ở phụ nữ có thai.
Về điều trị. Điều trị sởi cần thực hiện ở bệnh viện nhằm mục đích cách ly và phát hiện kịp thời các biến chứng. Đáng tiếc là hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có thể điều trị hỗ trợ.
Về điều trị. Điều trị sởi cần thực hiện ở bệnh viện nhằm mục đích cách ly và phát hiện kịp thời các biến chứng. Đáng tiếc là hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có thể điều trị hỗ trợ.
Giống như sởi, rubella cũng chưa có phác đồ điều trị cụ thể. Tuy nhiên, việc chăm sóc bệnh nhân sẽ góp phần đáng kể trong nỗ lực giảm bớt sự khó chịu. Đối với trẻ sơ sinh, điều trị được tập trung vào việc giảm tác hại của biến chứng.
Giống như sởi, rubella cũng chưa có phác đồ điều trị cụ thể. Tuy nhiên, việc chăm sóc bệnh nhân sẽ góp phần đáng kể trong nỗ lực giảm bớt sự khó chịu. Đối với trẻ sơ sinh, điều trị được tập trung vào việc giảm tác hại của biến chứng.
Về phòng ngừa. Cách phòng ngừa sởi phổ biến là tiêm phòng vắc xin tam liên. Mũi đầu tiên thực hiện lúc trẻ được 12 đến 15 tháng tuổi. Mũi tiêm nhắc lại có thể thực hiện lúc trẻ được 4 đến 6 tuổi tuy nhiên cũng có thể tiêm nhắc vào bất cứ lúc nào sau mũi thứ nhất bốn tuần. Còn lại, Rubella được phòng ngừa khá hiệu quả bởi vắc xin dòng RA 27/3 và Cendehill.

Về phòng ngừa. Cách phòng ngừa sởi phổ biến là tiêm phòng vắc xin tam liên. Mũi đầu tiên thực hiện lúc trẻ được 12 đến 15 tháng tuổi. Mũi tiêm nhắc lại có thể thực hiện lúc trẻ được 4 đến 6 tuổi tuy nhiên cũng có thể tiêm nhắc vào bất cứ lúc nào sau mũi thứ nhất bốn tuần. Còn lại, Rubella được phòng ngừa khá hiệu quả bởi vắc xin dòng RA 27/3 và Cendehill.

Đọc nhiều nhất

Tin mới