Vị tướng Tây Sơn nào lòng dạ trí trá, hàng Nguyễn Ánh?

Khi còn là tướng của Tây Sơn ở dưới quyền của cha vợ là Lê Trung, vì thấy nhà Tây Sơn khó bề trụ vững, Lê Chất đã tỏ rõ ý đồ mưu phản bằng việc viết thư cho Nguyễn Văn Tính để tỏ ý muốn theo phò Nguyễn Ánh...

Theo sử sách và các tài liệu lịch sử của nhà Nguyễn còn lưu truyền đến ngày nay, Lê Chất người làng Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Ông sinh năm Giáp Ngọ 1774, mất năm Bính Tuất 1826, thọ 52 tuổi. Thời trẻ, Lê Chất từng tham gia phong trào Tây Sơn và lập được nhiều công, rồi được phong tới chức Đô đốc. Bấy giờ có Lê Trung là tướng của Tây Sơn, vì mến tài của Lê Chất, nên đem con gái là Lê Thị Sa mà gả cho. Lê Chất cùng cha vợ là Lê Trung gắn bó với nhau một thời gian khá dài trong đội quân của Tây Sơn.

Vi tuong Tay Son nao long da tri tra, hang Nguyen Anh?

Lê Chất. Ảnh minh họa.

Sau khi Quang Trung mất 1792, nội bộ Tây Sơn có sự mất đoàn kết, Lê Chất lấy đó làm lo lắng. Nhân thấy tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Văn Tính đóng quân ở gần đấy, Lê Chất bàn với Lê Trung ra hàng, nhưng Lê Trung cứ chần chừ không quyết. Thấy không thể thuyết phục được cha vợ, Lê Chất liền viết thư xin hàng và gửi cho Nguyễn Văn Tính. Trong thư, Lê Chất ước hẹn làm nội ứng cho Nguyễn Văn Tính. Nguyễn Văn Tính đem thư ấy dâng lên Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Phúc Ánh nói với Nguyễn Văn Tính và các tướng dưới quyền rằng: Lê Chất là đứa giảo hoạt, cho nên lời này chưa hẳn đã là lời nói thực. Vì thế không ai được vội tin.

Về sau, Lê Trung biết việc Lê Chất đã gửi thư cho Nguyễn Văn Tính, bèn chỉ tay vào mặt Lê Chất mà quát mắng. Từ đó, Lê Chất rất lo sợ. Năm 1798, khi Lê Chất đang đóng quân ở Trà Khúc thì nội bộ quân Tây Sơn càng mất đoàn kết hơn, đã thế quân của Nguyễn Phúc Ánh khi đó lại liên tiếp thắng được mấy trận liền, cho nên Nguyễn Quang Toản ngờ rằng Lê Trung cùng con rể là Lê Chất thông đồng với giặc. Từ nghi ngờ ấy, Quang Toản đã hạ lệnh giết Lê Trung và Lê Chất, nhưng Lê Chất đã trốn, song bị truy lùng rất gắt gao.

Vì đường cùng, Lê Chất bắt một người có khuôn mặt giống mình rồi bỏ thuốc độc cho chết để đóng vai Lê Chất tự tử. Chuyện này, ngay cả mẹ của Lê Chất là Đào Thị cũng nhầm, ôm xác người bị bỏ thuốc độc chết mà khóc thê thảm. Tây Sơn cũng tin là Lê Chất đã chết rồi nên không truy lùng nữa. Sau đó chẳng bao lâu, Lê Chất đem mẹ và vợ con vào ẩn náu trong núi Trà Bồng. Tại đây, Lê Chất quen một người không rõ họ tên, mà người này lại quen với một tướng của Tây Sơn là Lê Văn Thanh. Biết tướng quân này vốn trọng tài của Lê Chất, người ấy bèn nói: Ông biết tài làm tướng của Lê Chất, sao không đến nhờ Lê Chất đến đỡ cho một tay.

Nghe vậy, Lê Văn Thanh nói: Chất đã chết rồi, còn đâu nữa mà dùng.

Người ấy thưa: Tin dùng Lê Chất thì Lê Chất sống, còn như không tin dùng Lê Chất thì Lê Chất chết.

Sau đó, Lê Văn Thanh hỏi lại đầu đuôi và người ấy liền cứ tình thực mà kể lại, sau đó người ấy về nhà dẫn Lê Chất vào. Lê Văn Thanh thấy Lê Chất, vui quá mà nói đùa rằng: Chất là người thật hay là ma đây? Mày chết rồi, ai lấy da thịt đắp vào mà mày lại có thể đến đây?

Nói rồi, lấy rượu cùng uống và lưu lại trong quân của mình. Năm 1799, Lê Chất đem 200 người đến Quy Nhơn, gặp tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Võ Tánh để xin hàng. Nguyễn Phúc Ánh cho Lê Chất làm thuộc tướng của Võ Tánh, đồng thời cho người đón mẹ và vợ con của Lê Chất vào Gia Định để nuôi nấng. Từ đây, Lê Chất gắn bó với Nguyễn Phúc Ánh đến hết đời.

Lời bàn:

Dù lịch sử có phán xét thế nào thì cũng không ai có thể phủ nhận Lê Chất không phải là bậc trung quân. Bởi khi còn là tướng của Tây Sơn ở dưới quyền của cha vợ là Lê Trung, nhưng vì thấy nhà Tây Sơn khó bề trụ vững thì Lê Chất đã tỏ rõ ý đồ mưu phản bằng việc viết thư cho Nguyễn Văn Tính để tỏ ý muốn theo phò Nguyễn Ánh. Sau khi làm liên lụy dẫn đến cha vợ bị giết, Lê Chất không còn gì vướng bận và đã sẵn sàng giết chết người có khuôn mặt và hình dáng giống mình để thuận đường đào tẩu sang với nhà Nguyễn.

Vấn đề là ở chỗ vua Gia Long biết Lê Chất vốn là người phản trắc nhưng vì sao vẫn chấp thuận và tin dùng? Đó chẳng qua cũng chỉ là vì địa vị, quyền lợi và danh vọng. Bởi chính Nguyễn Ánh cũng vì điều này mà sẵn sàng “rước” mấy vạn quân Xiêm và thực dân Pháp vào xâm lược nước ta. Một ông vua còn vậy huống chi là bộ tướng dưới quyền. Và đây mới là điều mà hậu thế cần phải suy ngẫm.


Cuộc đời Vua Gia Long qua sách hiếm của người Pháp 100 năm trước

Tác giả Michel Gautier, trong cuốn "Vua Gia Long", cho rằng lớp màn quên lãng không hề phủ lên trên tên tuổi của vị vua sáng lập ra triều Nguyễn.

Hào quang của vua Gia Long trong mắt Michel Gaultier

Michel Gaultier (1900-1960) là một công chức làm việc tại Việt Nam, với vị trí biên tập viên trong Nha Dân sự vụ thuộc Phủ Toàn quyền trong suốt hơn 10 năm. Với niềm say mê tìm hiểu về đề tài bản xứ, ông đã trở thành một nhà biên khảo sử thuộc địa, kiêm nhà văn có những tiểu thuyết và truyện chuyên về bối cảnh Việt Nam và Đông Dương.

Ông đã có hai công trình về các vị vua mở đầu triều Nguyễn là Vua Gia Long (xuất bản năm 1933) và Vua Minh Mạng (1936) - cuốn sách được nhận giải thưởng Therouanne của Viện Hàn lâm Pháp trao cho công trình sử học hay vào năm 1937. Sau đó, ông tiếp tục viết hai công trình biên khảo về vua Hàm Nghi mang tên Hoàng đế bị lưu đày và Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Hàm Nghi, hoàng đế An Nam, xuất bản vào các năm 1940 và 1959.

Cuoc doi Vua Gia Long qua sach hiem cua nguoi Phap 100 nam truoc
Vua Gia Long là tác phẩm đầu tay của Michel Gaultier. 
Cuốn sách chân dung vua Gia Long là tác phẩm đầu tiên của Gaultier, với mong muốn trình bày toàn cảnh lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc cho đến năm 1802 - thời điểm Việt Nam thống nhất sau nhiều năm chiến tranh, chia rẽ. Thời điểm mở đầu của lịch sử nước ta được tác giả lựa chọn là năm 275 trước công nguyên, với sự xuất hiện của nhà Thục.

Tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, dành toàn bộ chương I để kể về các sự kiện trong lịch sử Việt Nam cho đến khi vua Quang Trung chiếm Thăng Long lần thứ ba năm 1789. Từ chương II và III mô tả về cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn, thông qua câu chuyện song song của hai nhân vật Bá Đa Lộc và chúa Nguyễn Ánh.

Chương IV nói về hoàn cảnh đất nước Việt Nam sau khi vua Gia Long lên ngôi, trong đó phần cuối chương này đề cập chi tiết đến tổ chức triều đình và quản lý đất nước, các luật lệ mà triều đình áp dụng cho đến khi ban hành bộ hình luật của triều đại, bộ Hoàng Việt luật lệ, tức Luật Gia Long được áp dụng từ năm 1818.

Mảng lịch sử thu gọn của đất nước Champa và Cao Miên cũng được tác giả đề cập khéo léo trong mối quan hệ của cuộc Nam tiến của nhà Nguyễn trong chương I và IV.

Sau khi vua Gia Long lên ngôi, tác giả nghiên cứu về các công trình hành chính của nhà vua, chính sách đối ngoại của ông. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nước Pháp bắt đầu dòm ngó Đông Dương, Gaultier phân tích chính sách thuộc địa của quận công Richelieu, cũng như sứ mệnh của các ông Kergariou và Chaigneau trong việc giao tiếp với vị vua nhà Nguyễn.

Với tài liệu của mình, Gaultier rút ra kết luận rằng các tác giả trình bày triều đại Gia Long như một giai đoạn trật tự và ổn định là thiếu chính xác. Bởi vì các tác giả này rút ra những định kiến ấy trong việc đọc biên niên sử được viết theo lệnh của triều đình Huế. Còn theo các tài liệu được công bố thời bấy giờ của cha Léopold Cadière, đã chứng minh rằng vua Gia Long bị ngập lút đầu trong những sự kiện.

Tác giả kết luận: “Vua Gia Long đã bị sức mạnh của những biến cố chính trị xô đẩy, buộc ông theo đuổi chính sách của các tiên vương bằng cách chú tâm gắn kết chặt sự nghiệp thống nhất vương quốc mà sự tương tranh của các dòng họ lớn có đặc quyền đã ngăn trở dài lâu”.

Trong lời giới thiệu cuốn sách, PGS. TS. Bửu Nam, thành viên hoàng tộc triều Nguyễn đã nhận xét đây là một công trình biên khảo về vua Gia Long và lịch sử Việt Nam có những thành tựu đáng kể trong thời điểm xuất bản, nhưng cũng có một số hạn chế do quan điểm, lối viết sử thuộc địa của tác giả. “Đây là một cuốn sách khá hấp dẫn để tham khảo”, ông Bửu Nam đánh giá.

Công trình này được Michel Gautier xuất bản tại Sài Gòn năm 1933, nhưng sau đó bị lãng quên trong lớp bụi thời gian, rồi tình cờ đến tay thầy giáo Đỗ Hữu Thạnh, người tu nghiệp tại Pháp và dạy tiếng Pháp ở Pháp quốc. Hứng thú với tác phẩm về vị vua mở đầu triều Nguyễn, thầy giáo Thạnh đã dành thời gian dịch cẩn thận, đồng thời tham khảo ý kiến các chuyên gia, học giả thuộc Hoàng tộc để hoàn thiện bản dịch. Tác phẩm vừa được NXB Thế giới cho ra mắt độc giả.

Chân dung vua Gia Long qua miêu tả của sủng thần lai Pháp

“Vua Gia Long da trắng, mắt sáng, chòm râu hoàn toàn bạc và dày hơn râu những người đàn ông khác trong xứ", Michel Đức tả về dung mạo vị vua đầu triều Nguyễn như vậy.

Sử sách Việt Nam ít khi mô tả rõ ràng dung mạo các vị quân vương, mà thường dành những ngôn từ ước lệ hoặc khoa trương, như “dáng hổ, mặt rồng”. Các vua đầu triều Nguyễn cũng ít được các sử quan mô tả dung mạo để đời sau hình dung.

Vị vua triều Nguyễn mỗi sáng chỉ húp cháo loãng, ăn cùng lính

Mỗi sáng, ông vua này thường chỉ húp bát cháo loãng. Có những lúc ra ngoài kinh thành, ông xuống thuyền ăn cùng binh lính.

Vi vua trieu Nguyen moi sang chi hup chao loang, an cung linh

Theo sách "Chín đời chúa mười ba đời vua triều Nguyễn", Gia Long là vị vua có thói quen ăn uống rất đơn giản. Mỗi sáng, vua thường chỉ húp bát cháo loãng. Có những lúc ra ngoài kinh thành, vua xuống thuyền ăn cùng binh lính.

Vi vua trieu Nguyen moi sang chi hup chao loang, an cung linh-Hinh-2

Quốc hiệu Việt Nam lần đầu tiên được sử dụng dưới thời vua Gia Long. Theo đó, sau khi thành lập nhà Nguyễn, vua Gia Long đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Việt Nam năm 1804.

Đọc nhiều nhất

Tin mới