Cuộc đời Vua Gia Long qua sách hiếm của người Pháp 100 năm trước

Tác giả Michel Gautier, trong cuốn "Vua Gia Long", cho rằng lớp màn quên lãng không hề phủ lên trên tên tuổi của vị vua sáng lập ra triều Nguyễn.

Hào quang của vua Gia Long trong mắt Michel Gaultier

Michel Gaultier (1900-1960) là một công chức làm việc tại Việt Nam, với vị trí biên tập viên trong Nha Dân sự vụ thuộc Phủ Toàn quyền trong suốt hơn 10 năm. Với niềm say mê tìm hiểu về đề tài bản xứ, ông đã trở thành một nhà biên khảo sử thuộc địa, kiêm nhà văn có những tiểu thuyết và truyện chuyên về bối cảnh Việt Nam và Đông Dương.

Ông đã có hai công trình về các vị vua mở đầu triều Nguyễn là Vua Gia Long (xuất bản năm 1933) và Vua Minh Mạng (1936) - cuốn sách được nhận giải thưởng Therouanne của Viện Hàn lâm Pháp trao cho công trình sử học hay vào năm 1937. Sau đó, ông tiếp tục viết hai công trình biên khảo về vua Hàm Nghi mang tên Hoàng đế bị lưu đày và Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Hàm Nghi, hoàng đế An Nam, xuất bản vào các năm 1940 và 1959.

Cuoc doi Vua Gia Long qua sach hiem cua nguoi Phap 100 nam truoc
Vua Gia Long là tác phẩm đầu tay của Michel Gaultier. 
Cuốn sách chân dung vua Gia Long là tác phẩm đầu tiên của Gaultier, với mong muốn trình bày toàn cảnh lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc cho đến năm 1802 - thời điểm Việt Nam thống nhất sau nhiều năm chiến tranh, chia rẽ. Thời điểm mở đầu của lịch sử nước ta được tác giả lựa chọn là năm 275 trước công nguyên, với sự xuất hiện của nhà Thục.

Tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, dành toàn bộ chương I để kể về các sự kiện trong lịch sử Việt Nam cho đến khi vua Quang Trung chiếm Thăng Long lần thứ ba năm 1789. Từ chương II và III mô tả về cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn, thông qua câu chuyện song song của hai nhân vật Bá Đa Lộc và chúa Nguyễn Ánh.

Chương IV nói về hoàn cảnh đất nước Việt Nam sau khi vua Gia Long lên ngôi, trong đó phần cuối chương này đề cập chi tiết đến tổ chức triều đình và quản lý đất nước, các luật lệ mà triều đình áp dụng cho đến khi ban hành bộ hình luật của triều đại, bộ Hoàng Việt luật lệ, tức Luật Gia Long được áp dụng từ năm 1818.

Mảng lịch sử thu gọn của đất nước Champa và Cao Miên cũng được tác giả đề cập khéo léo trong mối quan hệ của cuộc Nam tiến của nhà Nguyễn trong chương I và IV.

Sau khi vua Gia Long lên ngôi, tác giả nghiên cứu về các công trình hành chính của nhà vua, chính sách đối ngoại của ông. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nước Pháp bắt đầu dòm ngó Đông Dương, Gaultier phân tích chính sách thuộc địa của quận công Richelieu, cũng như sứ mệnh của các ông Kergariou và Chaigneau trong việc giao tiếp với vị vua nhà Nguyễn.

Với tài liệu của mình, Gaultier rút ra kết luận rằng các tác giả trình bày triều đại Gia Long như một giai đoạn trật tự và ổn định là thiếu chính xác. Bởi vì các tác giả này rút ra những định kiến ấy trong việc đọc biên niên sử được viết theo lệnh của triều đình Huế. Còn theo các tài liệu được công bố thời bấy giờ của cha Léopold Cadière, đã chứng minh rằng vua Gia Long bị ngập lút đầu trong những sự kiện.

Tác giả kết luận: “Vua Gia Long đã bị sức mạnh của những biến cố chính trị xô đẩy, buộc ông theo đuổi chính sách của các tiên vương bằng cách chú tâm gắn kết chặt sự nghiệp thống nhất vương quốc mà sự tương tranh của các dòng họ lớn có đặc quyền đã ngăn trở dài lâu”.

Trong lời giới thiệu cuốn sách, PGS. TS. Bửu Nam, thành viên hoàng tộc triều Nguyễn đã nhận xét đây là một công trình biên khảo về vua Gia Long và lịch sử Việt Nam có những thành tựu đáng kể trong thời điểm xuất bản, nhưng cũng có một số hạn chế do quan điểm, lối viết sử thuộc địa của tác giả. “Đây là một cuốn sách khá hấp dẫn để tham khảo”, ông Bửu Nam đánh giá.

Công trình này được Michel Gautier xuất bản tại Sài Gòn năm 1933, nhưng sau đó bị lãng quên trong lớp bụi thời gian, rồi tình cờ đến tay thầy giáo Đỗ Hữu Thạnh, người tu nghiệp tại Pháp và dạy tiếng Pháp ở Pháp quốc. Hứng thú với tác phẩm về vị vua mở đầu triều Nguyễn, thầy giáo Thạnh đã dành thời gian dịch cẩn thận, đồng thời tham khảo ý kiến các chuyên gia, học giả thuộc Hoàng tộc để hoàn thiện bản dịch. Tác phẩm vừa được NXB Thế giới cho ra mắt độc giả.

Vua triều Nguyễn chống bùa chú, trấn yểm tài tình thế nào?

Trong những năm đầu trị quốc của hoàng đế Gia Long, cùng với nạn giặc giã, thú dữ hoành hành, vấn nạn mê tín dị đoan cũng là mối quan tâm hàng đầu của nhà vua.

Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!
Vua trieu Nguyen chong bua chu, tran yem tai tinh the nao?
Chân dung Hoàng đế Gia Long. 
Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục "rửa gân", "nghiệm gân" bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết…
Luật hình - nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy giờ. Không chỉ quật mồ người thân chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc. Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: "Phàm những người lấy tai mắt, tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không được tha tội".
Luật hình - nhân mạng thời bấy giờ còn có tội danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.
Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: "Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người thường, con cháu, nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi) đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật "mưu giết người", mà trị tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc".
Vua Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.
Vua trieu Nguyen chong bua chu, tran yem tai tinh the nao?-Hinh-2
Quan tòa kết tội và thi hành án một phạm nhân. 
Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị, đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: "Những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả".
Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.
Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ những Dâm thần vốn dĩ là những "thần bậy bạ không đáng thờ", ông đã cho phá hết những đền thờ dâm thần trong hạt!
Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3), hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng "dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt".
Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: "Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng, vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân".
Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)...
Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và tà thuật (Luật lễ - nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.
Vua trieu Nguyen chong bua chu, tran yem tai tinh the nao?-Hinh-3
 

Cung nữ 96 tuổi kể chuyện cuộc sống nơi lầu son gác tía

Người cung nữ của triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam - ở tuổi gần 100 vẫn nhớ tường tận cuộc sống nơi lầu son gác tía.

 Lầm lũi phận tôi tớ

Chiều Huế mưa rả rích. Trong phủ Kiên Thái Vương (179 Phan Đình Phùng, TP.Huế) u tịch, một cụ bà tóc bạc lặng lẽ cầm những nén hương thắp lên án thờ các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Khải Định và Bảo Đại. Cơn gió se lạnh từ bên ngoài rít qua cánh cửa phủ sờn cũ khiến cụ bà run rẩy. Cụ lẩm bẩm khấn vái, đôi mắt mờ đục hướng lên di ảnh các vị vua. Người dân sống xung quanh phủ Kiên Thái Vương gọi cụ là mệ Dinh, tên đầy đủ của cụ là Lê Thị Dinh.

Mệ Dinh là một trong số ít cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn hiện còn sống. Đã bước sang tuổi 96 nhưng mệ vẫn nhớ như in những ngày làm người hầu nơi cung cấm. Năm lên 8 tuổi, đang học lớp 5 trường Đồng Khánh, mệ được Thánh Cung Hoàng hậu - vợ vua Đồng Khánh, gọi vào cung. Đến năm 15 tuổi, khi Thánh Cung qua đời, mệ chuyển sang hầu Đức Từ Cung- vợ vua Khải Định. Mỗi tháng mệ được trả 6 đồng tiền lương (có thể mua được 600 lon gạo).

Cung nu 96 tuoi ke chuyen cuoc song noi lau son gac tia

Cụ bà Lê Thị Dinh - một trong số ít cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn còn sống. T.H Ảnh lớn: Cung nữ theo hầu Hoàng Thái hậu trong cung nhà Nguyễn. ảnh: Tư Liệu

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đức Từ Cung chuyển về cung An Định, sau đó về sống tại 147 Phan Đình Phùng (Huế), mệ Dinh tiếp tục theo hầu. Là cung nữ nhưng đồng thời cũng là con cháu hoàng tộc, nên sau khi Đức Từ Cung qua đời, mệ chuyển đến phủ Kiên Thái Vương để lo hương khói cho các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Khải Định, từ năm 1997 thì thờ thêm vua Bảo Đại.

Mệ kể, khi hay tin mình được vào cung, mệ vừa mừng vừa lo. Mừng vì làm cung nữ là một vinh dự lớn, bởi trong mắt dân thường, cung nữ là người có địa vị cao, được phép ra vào nơi lầu son gác tía. Lo vì mệ từng nghe rất nhiều câu chuyện buồn về thân phận cung nữ phải gánh chịu nhiều bi kịch. “Cung nữ thực chất chỉ là nô lệ hạng sang, sướng thì có sướng nhưng họa sát thân có thể giáng xuống đầu bất cứ lúc nào”- mệ đúc kết về phận cung nữ.

Đôi mắt mờ đục của mệ ứa nước khi những ký ức buồn ùa về. Trong chuỗi ngày làm người hầu ở nơi quyền quý, mệ đã chứng kiến nhiều cung nữ phải chịu những trận đòn tàn bạo. “Hình phạt đối với cung nữ hết sức hà khắc, chỉ cần một sai sót nhỏ là phải ăn đòn. Có lần một cung nữ vì sợ ma mà la thét lên khiến hoàng hậu giật mình tỉnh giấc. Việc đơn giản như thế nhưng cung nữ này đã bị lôi ra sau cung đánh đập thừa sống thiếu chết”- mệ vừa kể vừa đưa bàn tay gầy guộc quệt nước mắt.

Theo lời mệ Dinh, là thân phận tôi tớ nên các cung nữ chỉ biết lầm lũi làm việc theo sự sai khiến của chủ nhân, không dám cãi nửa lời. Những cung nữ thường vào cung từ năm 8-10 tuổi, rời cung tuổi đã ngoài 30, khi đã quá lứa lỡ thì. Một quy tắc bất di bất dịch đối với mọi cung nữ là phải thủ tiết cho đến ngày rời cung...

Thâm cung bí sử

Mỗi khi đến bữa ăn, mệ phụ trách kiểm tra các món ăn. Đến thời Đức Từ Cung, mệ còn được sai viết thư thăm hỏi vua Bảo Đại mỗi lần vua đi du hí”. 

Cụ bà Lê Thị Dinh

Cuộc sống nhung lụa của những ông hoàng bà chúa, sau hơn 70 năm mệ Dinh vẫn nhớ tỉ mẩn. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, những bậc “bề trên” được người hầu dùng nước ngâm các loài hoa để rửa chân, rửa mặt. Sáng dậy, các ngài tắm bằng nước ngâm các loại hoa lài, hồng, hoặc nước nấu bằng lá các loại cây như sả, bưởi, chanh…

Vào các dịp lễ tết, triều đình tổ chức rất nhiều lễ cúng linh đình, đồ cúng có đủ sơn hào hải vị, được chuẩn bị trước đó hàng tháng trời. Ấn tượng nhất là lễ hội pháo hoa đêm giao thừa “bắn lên những long, phụng đủ sắc màu và đẹp chi lạ” phục vụ cho hoàng gia kéo dài cả giờ đồng hồ nơi hoàng cung.

Tôi hỏi mệ, trong số những ông hoàng bà chúa ngày đó, mệ nhớ người nào nhất. Mệ chậm rãi, có hai người mệ nhớ nhất là Đức Từ Cung và con trai bà là vua Bảo Đại. Trong ký ức của mệ, Đức Từ Cung là một người biết lo lắng cho vận mệnh của hoàng tộc và rất thương dân. Ngài rất thích nghe những bài vè, bài vịnh về những người phụ nữ khí phách của nước Nam như Huyện Thanh Quan, Triệu Ấu, công chúa Huyền Trân… Mỗi lần nghe những bài đó, ngài bảo đàn bà con gái trong nước phải biết noi gương những người khí tiết ấy. Khi biết một vùng quê nào đó có dân đói khổ, ngài liền sai người hỗ trợ lương thực. Khi nghe thông tin về hoạt động mị dân của thực dân Pháp, ngài rất buồn và lo lắng...

“Đức Từ Cung đức hạnh, thương dân thương nước như vậy, còn đức Bảo Đại hư hỏng lắm. Thấy con suốt ngày chỉ biết mê mẩn tửu sắc trong khi người Pháp ngang ngược lộng hành, ngài ăn không ngon ngủ không yên”- mệ Dinh mở đầu câu chuyện về vua Bảo Đại. Mệ kể, Bảo Đại là người không có nhiều cung tần, thứ phi ở trong cung nhưng lại hay “lăng nhăng” bên ngoài.

Mệ bảo mình còn biết rất nhiều chuyện “thâm cung bí sử” khác, nhưng không muốn kể. “Mình là con cháu hoàng tộc, kể những chuyện không hay ho chi về tiền nhân là có lỗi. Chuyện chi qua rồi phải để cho nó qua đi”- mệ cười buồn.

Chuyện tình đơn phương bi thảm của công chúa triều Nguyễn với thiền sư

Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh - công chúa thứ 3 của Hoàng đế Gia Long, vì tình yêu đơn phương với với một nhà sư mà mang tới một kết cục thật bi thảm.

Chuyện tình đơn phương của công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh – hoàng nữ vua Gia Long với vị Thiền sư đáng kính đất phương Nam Liễu Đạt Thiệt Thành được người đời ví như câu chuyện tình hoàng tộc bi ai nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam…

Đọc nhiều nhất

Tin mới