Những góc chiến trường không tiếng súng ở Điện Biên Phủ

(Kiến Thức) - Các trận giao chiến là mảng nổi bật của bức tranh chiến trường Điện Biên nhưng sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc tới những góc nhỏ không tiếng súng.

Đấu trí qua chiến lợi phẩm
Ở Điện Biên, khi quân Pháp đã bị quân ta vây chặt trong những chiến hào và đường băng bị pháo ta khống chế không cất cánh được nữa thì mọi thứ tiếp tế đều tiến hành qua thả dù.
Nhưng do trận địa chiến hào của ta ngày càng nhích dần vào trong mà máy bay thả dù thì sợ cao xạ không dám bay thấp thả cho chính xác nên càng ngày số dù càng rơi sang trận địa ta phần lớn.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014), Kiến Thức xin gửi tới độc giả loạt bài viết về sự kiện này với những thông tin phong phú, giàu giá trị tham khảo. Loạt bài sẽ được đăng tải liên tục từ ngày 4/5/2014- 8/5/2014. Kính mời độc giả theo dõi, đón đọc.
Vào lúc đó, đạn dược nhất là đạn pháo 105 đã bắt đầu khan hiếm cho nên việc đoạt dù tiếp tế của địch nhằm tìm đạn cho pháo trở thành một phong trào rộng lớn được các đơn vị bộ binh đều hưởng ứng. Có đơn vị đề ra thành phương châm: Lấy vũ khí trước, lương thực sau; lấy xa trước, gần sau, không lấy được thì phá hủy.
Kẻ địch cũng biết điều đó nên chúng âm mưu “tương kế tựu kế” phá ta. Kèm theo những viên đạn thật, chúng để lẫn cả những viên đạn phá nòng súng hòng đánh lừa ta. Việc tiếp thu đạn chiến lợi phẩm thực sự đã thành một cuộc đấu trí giữa cán bộ hậu cần kỹ thuật của ta với Pháp và trong vụ này ta lại thắng địch một keo nữa trong ván bài lớn Điện Biên.
Sách Trận tuyến hậu cần Điện Biên Phủ của Nxb QĐND chép: “Ở khẩu đội pháo phía bắc mấy hôm liền hết đạn anh em rất buồn. Mỗi lần thấy phía đông nổ súng, anh em lại càng sốt ruột.
Một buổi chiều, máy bay địch thả dù, nhiều loại dù tạ rơi gần trận địa pháo. Mọi khi chúng thả dù có lạc cũng chỉ quanh quẩn cách cứ điểm của chúng 1 đến 2km. Hôm nay dù lại rơi xa đến 4; 5 km xuống tận các trận địa pháo ta. Thấy có dù, anh em xông ra đoạt. Toàn dù đạn, cứ mỗi kẹp có 4 viên 105 hoặc cối 120 còn mới tinh, sặc mùi sơn và ê te. Thật là món quà vô giá. Đơn vị vội lấy vào, điểm số, phân loại và báo cáo lên cấp trên xin được dùng đạn để đánh ngay trận hôm nay.
Bất ngờ trên ra lệnh: “Tất cả số đạn mới lấy được phải giữ cẩn thận, không được đụng tới một viên”. Dưới đơn vị anh em tưởng cấp trên định dùng số đạn này cho đơn vị khác dùng. Đến chiều một tổ quân khí được lệnh đến đơn vị cùng với quân khí viên của đơn vị kiểm tra đạn chiến lợi phẩm. Họ lọc ra 12 viên 105, 5 viên cối 120 trong số hơn 200 viên. Và họ chỉ ra cho anh em pháo thủ thấy những viên đạn này y hệt như đạn thường, chỉ có vành đai của nó to hơn đạn thường vài mm. Đó là những viên đạn phá nòng. Nếu không biết kỹ thuật, không cảnh giác, lúc bắn nòng súng sẽ bị phá vỡ và gây thương vong cho người bắn. Tối hôm đó, những viên đạn địch, qua kiểm tra kỹ thuật lại bay vào phá tan đồn địch”.
Đưa đạn tới hầm pháo. Ảnh: Vnmilitaryhistory.
 Đưa đạn tới hầm pháo. Ảnh: Vnmilitaryhistory.
Tương tự như vậy trên mặt trận đảm bảo đường sá, địch cũng giở nhiều mưu mô. Chúng thả xuống đường nào bom bướm, mìn nhảy, chông sắt để sát thương dân công và những người bảo vệ đường. Thâm độc hơn, chúng biết ta đã biết cách phá bom nổ chậm nên âm mưu lợi dụng việc này để sát thương quân ta.
Chúng đã thay đổi ren của kíp nổ ngược lại để đánh lừa ta. Bình thường ren của kíp là ren xoắn phải nhưng giờ chúng làm ren xoắn trái. Bởi thế ta càng vặn thì kíp càng đi vào và phát nổ gây thương vong cho người phá bom.
Sau một vài lần bị thương vong, lực lượng quân khí của ta đã nhanh chóng nghiên cứu và phát hiện được bí mật. Nhờ đó bom nổ chậm của địch lại bị phá hoặc được tháo ra lấy thuốc nổ phục vụ phá đá mở đường.
Cuộc đấu tình báo
Khi chiến dịch Điện Biên đã bước vào giai đoạn 2, quân Pháp ở đây đã cực kỳ nguy khốn trong cảnh bị bao vây, Pháp lại đi một nước cờ mạo hiểm là cho người trá hàng để lung lạc ý chí quân ta.
Câu chuyện này được đại tá Mạc Lâm – cán bộ Cục Quân báo kể lại trong cuốn Nhà tình báo và phi công tù binh:
Vào tháng 4/1954, trong lúc quân ta siết chặt vòng vây Điện Biên Phủ, được tin tỉnh Vĩnh phúc bắt được 1 hàng binh. Người này khai đã từng ở Điện Biên Phủ nên được đưa lên Điện Biên để khai thác tiếp. Qua khai thác thì thấy đúng là anh ta biết rất rõ cách bố trí binh lực, hỏa lực của Pháp ở Điện Biên và phân tích rất sâu những ưu điểm và nhược điểm của nó.
Tù binh Pháp bị bắt ở Điện Biên Phủ. Ảnh: Internet.
 Tù binh Pháp bị bắt ở Điện Biên Phủ. Ảnh: Internet.
Điều đặc biệt là trong khi khai báo, người hàng binh này rất tự tin và thường nhấn mạnh: “Đánh vào Điện Biên Phủ sẽ thiệt hại nhiều, các ngài chỉ nên đánh vào những cứ điểm yếu thôi. Pháp quyết giữ không chịu thất bại ở chiến trường này – một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương được Mỹ viện trợ”. Có nhiều khi anh ta lại hỏi lại Mạc Lâm: “Cấp trên của ngài có bằng lòng với những tin tức tôi đã cung cấp không? Các ngài có đủ khả năng tiến công ồ ạt vào Điện Biên Phủ không?”.
Thái độ cùng những câu hỏi ngược này làm nảy sinh mối nghi ngờ của người sĩ quan hỏi cung. Ông tự hỏi có khi nào tên này trá hàng không? Càng nghĩ lại càng thấy những nghi ngờ là có cơ sở. Do vậy, ông Mạc Lâm quyết định phải điều tra cho ra.
Bằng kinh nghiệm của một người chuyên hỏi cung, sau một vài động tác nghiệp vụ sâu, ông đã bắt hắn phải khai thật rằng: “Tôi được quân Pháp bố trí trá hàng để ngăn chặn các cuộc tấn công của các ông vào cứ điểm tiếp theo ở Điện Biên Phủ. Chúng tôi muốn kéo dài những đợt tiến công của các ông để chờ sự giúp đỡ của Mỹ. Tất cả nằm trong kế hoạch của Chính phủ Pháp – yêu cầu hai đồng minh Mỹ, Anh giúp sức để cứu vãn Điện Biên Phủ nói riêng, chiến cuộc của Pháp ở Đông Dương nói chung”.
Nhưng mọi âm mưu của Pháp đều thất bại. Pháp không cứu được Điện Biên còn Mỹ tuy lắm tiền nhiều súng cũng chẳng có cách gì để thay đổi cục diện. Và ngày 7/5 đã đi vào lịch sử nhân loại với ý nghĩa là ngày kết thúc một trận đánh lừng lẫy lịch sử đồng thời mở đầu một thời kỳ tiêu diệt chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.

Ngắm huyền thoại “kình ngư” đầu tiên chinh phục Hoàng Sa

Bằng những chiếc thuyền câu nhỏ hay còn gọi là ghe bầu cùng ý chí quyết tâm, ông cha ta đã chinh phục Hoàng Sa - Trường Sa.


Ghe bầu chính là con "kình ngư" đầu tiên đã giúp cha ông ta chinh phục Hoàng Sa, Trường Sa.
Ghe bầu chính là con "kình ngư" đầu tiên đã giúp cha ông ta chinh phục Hoàng Sa, Trường Sa.

Trong cuộc chinh phục biển cả, chỉ bằng những chiếc ghe bầu nhỏ bé ông cha ta đã để lại cả một tài sản vô giá cho chúng ta là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
 Trong cuộc chinh phục biển cả, chỉ bằng những chiếc ghe bầu nhỏ bé ông cha ta đã để lại cả một tài sản vô giá cho chúng ta là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Biểu tượng thường thấy của ghe bầu nằm ở mũi thuyền của hải đội Hoàng Sa.
 Biểu tượng thường thấy của ghe bầu nằm ở mũi thuyền của hải đội Hoàng Sa.

Phần chìm dưới nước của ghe bầu thường làm bằng tre, phần trên làm bằng các loại gỗ rất tốt.
 Phần chìm dưới nước của ghe bầu thường làm bằng tre, phần trên làm bằng các loại gỗ rất tốt.

Phần nhà thuyền ở dùng để nghỉ tạm cho các "thủy thủ" của hải đội Hoàng Sa.
 Phần nhà thuyền ở dùng để nghỉ tạm cho các "thủy thủ" của hải đội Hoàng Sa. 

Trụ cuộn dây tời của thuyền.
 Trụ cuộn dây tời của thuyền.

Cánh buồm đơn sơ của ghe bầu.
  Cánh buồm đơn sơ của ghe bầu.

Mái chèo.
 Mái chèo.

Dọc thân của ghe bầu.
Dọc thân của ghe bầu.
"Kình ngư" đầu tiên của cha ông ta dùng để chinh phục Hoàng Sa, Hoàng Sa.
"Kình ngư" đầu tiên của cha ông ta dùng để chinh phục Hoàng Sa, Hoàng Sa.  




Loạt ảnh cực độc về lính Pháp tại Điện Biên Phủ

(Kiến Thức) -  Máy ủi nhảy dù, người phụ nữ bí ẩn, cứ điểm Dominique... là những hình ảnh do nhiếp ảnh gia Pháp H. Mauchamp chụp tại Điện Biên Phủ cuối năm 1953.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu
 Tháng 11/1953, thung lũng Điện Biên Phủ vẫn khá yên tĩnh. Tại các làng bản quanh đó người dân vẫn sống một cuộc sống bình thường, dù hai tiểu đoàn Pháp đang đóng quân ở đây. Nhưng mọi thứ nhanh chóng bị xáo trộn khi những chiếc dù màu trắng phủ kín bầu trời. Hàng nghìn lính Pháp đã đổ bộ xuống Điện Biên Phủ. Ảnh: Lính Pháp đóng quân tại cứ điểm Dominique.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-2
 Dù của lính Pháp phủ trắng lòng chảo Điện Biên Phủ.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-3
 Không chỉ binh sĩ, các trang thiết bị cỡ lớn cũng được thả xuống. Trong ảnh là một chiếc máy ủi được thả xuống bằng 5 chiếc dù.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-4
 Lính Pháp và các trang thiết bị vừa đổ bộ.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-5
 Những người dân tộc Thái được thuê để thu nhặt dù của quân Pháp.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-6
 Lính Pháp nhanh chóng dựng trại và tiến hành đào hầm, hào, dựng công sự.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-7
Hai sĩ quan Alibert (đứng) và Durrafour (ngồi) trên một cao điểm đang được dọn dẹp để bố trí các tiểu đoàn súng cối.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-8
 Căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ nằm sát bờ sông Nậm Rốn.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-9
 Khu vực đặt các loại vũ khí tự động.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-10
 Sĩ quan Pháp nghỉ ngơi trên cứ điểm Dominique.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-11
 Tướng Gilles, một sĩ quan cao cấp của Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-12
 Máy bay Pháp đỗ trên sân bay dã chiến.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-13
 Đơn vị trinh sát của Pháp trở về căn cứ.

Loat anh cuc doc ve linh Phap tai Dien Bien Phu-Hinh-14
 Một người phụ nữ hiếm hoi có mặt trong đoàn quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Có thể bà là nữ phóng viên nổi tiếng Brigitte Friang.

Hành trang đặc biệt của Hải đội Hoàng Sa xưa

(Kiến Thức) - 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán…là những vật bất ly thân của quân binh Hải đội Hoàng Sa xưa.

Theo sử cũ ghi chép, dưới thời các Chúa Nguyễn sau đó là các vua triều Nguyễn, nhà nước phong kiến Việt Nam đã thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải làm nhiệm vụ đi thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, cắm mốc chủ quyền. Ngày nay, tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn còn lưu giữ lại những hành trang năm xưa mang theo và có một “khu mộ gió” quân binh sừng sững giữa đảo. Trong ảnh là nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Công trình mô phỏng kiến trúc truyền thống với bộ mái cùng trang trí kiểu thời Nguyễn được hoàn thành tháng 1/2010. Nơi đây trưng bày những hiện vật, tài liệu về hoạt động của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.
 Theo sử cũ ghi chép, dưới thời các Chúa Nguyễn sau đó là các vua triều Nguyễn, nhà nước phong kiến Việt Nam đã thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải làm nhiệm vụ đi thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, cắm mốc chủ quyền. Ngày nay, tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn còn lưu giữ lại những hành trang năm xưa mang theo và có một “khu mộ gió” quân binh sừng sững giữa đảo. Trong ảnh là nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải. Công trình mô phỏng kiến trúc truyền thống với bộ mái cùng trang trí kiểu thời Nguyễn được hoàn thành tháng 1/2010. Nơi đây trưng bày những hiện vật, tài liệu về hoạt động của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.
Việc thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải là minh chứng lịch sử khẳng định trung thực nhất nhà nước phong kiến Việt Nam trong công cuộc chinh phục biển Đông, gây dựng chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong ảnh là mô hình thuyền câu dùng để đi biển của Hải đội Hoàng Sa (do nghệ nhân Võ Hiển Đạt - xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn phục chế).
 Việc thành lập các Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải là minh chứng lịch sử khẳng định trung thực nhất nhà nước phong kiến Việt Nam trong công cuộc chinh phục biển Đông, gây dựng chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong ảnh là mô hình thuyền câu dùng để đi biển của Hải đội Hoàng Sa (do nghệ nhân Võ Hiển Đạt - xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn phục chế).
Trải qua nhiều thế kỉ, đã có rất nhiều võ quan, binh lính thừa lệnh triều đình hi sinh khi đi làm nhiệm vụ giong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, trồng cây, cắm mốc, dựng bia chủ quyền của nước ta với các quần đảo này. Trong ảnh là nghi thức lễ cuối cùng tại lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là dẫn đoàn thuyền có hình nhân thế mạng ra khơi, tái hiện lại chuyến đi của quân binh khi xưa.
 Trải qua nhiều thế kỉ, đã có rất nhiều võ quan, binh lính thừa lệnh triều đình hi sinh khi đi làm nhiệm vụ giong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thu lượm sản vật, trồng cây, cắm mốc, dựng bia chủ quyền của nước ta với các quần đảo này. Trong ảnh là nghi thức lễ cuối cùng tại lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là dẫn đoàn thuyền có hình nhân thế mạng ra khơi, tái hiện lại chuyến đi của quân binh khi xưa. 
Theo ghi chép trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn năm 1776 (từng làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa thế kỷ XVIII) kể rằng: "Nhà Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở An Vĩnh (xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn ngày nay) bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch...
 Theo ghi chép trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn năm 1776 (từng làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa thế kỷ XVIII) kể rằng: "Nhà Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở An Vĩnh (xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn ngày nay) bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch...
..Đội Hoàng Sa này được cấp mỗi người sáu tháng lương thực. Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo Hoàng Sa. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa được tái hiện.
 ..Đội Hoàng Sa này được cấp mỗi người sáu tháng lương thực. Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo Hoàng Sa. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa được tái hiện. 
Họ tha hồ lượm nhặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ nhặt được những đồ như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, ngà voi...do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào đảo. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa.
 Họ tha hồ lượm nhặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ nhặt được những đồ như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, ngà voi...do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào đảo. Ảnh: Nghi thức xuất quân đi Hoàng Sa. 
Trong “Đại Nam thực lục chính biên” do các sử thần trong quốc sử quán biên soạn có ghi chép, Hải đội Hoàng Sa còn kiêm quản cả đội Bắc Hải cùng làm nhiệm vụ ở Trường Sa và các đảo phía trong Nam. Đặc biệt, đội Hoàng Sa còn làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, canh chừng giặc biển, dựng bia chủ quyền và giữ gìn các hải đảo Hoàng Sa.
 Trong “Đại Nam thực lục chính biên” do các sử thần trong quốc sử quán biên soạn có ghi chép, Hải đội Hoàng Sa còn kiêm quản cả đội Bắc Hải cùng làm nhiệm vụ ở Trường Sa và các đảo phía trong Nam. Đặc biệt, đội Hoàng Sa còn làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, canh chừng giặc biển, dựng bia chủ quyền và giữ gìn các hải đảo Hoàng Sa.
Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi/ Trường Sa lắm đảo, nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây. Đó là những câu ca của người dân trên đảo Lý Sơn truyền tụng về những hiểm nguy, khó khăn gian khổ của người lính đi Hoàng Sa, Trường Sa thi hành nhiệm vụ khi ấy. Ảnh: Mỗi lần tế thần, danh sách những người lính đi Hoàng sa luôn được vinh danh để con cháu tưởng nhớ, tri ân.
 Trường Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi/ Trường Sa lắm đảo, nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây. Đó là những câu ca của người dân trên đảo Lý Sơn truyền tụng về những hiểm nguy, khó khăn gian khổ của người lính đi Hoàng Sa, Trường Sa thi hành nhiệm vụ khi ấy. Ảnh: Mỗi lần tế thần, danh sách những người lính đi Hoàng sa luôn được vinh danh để con cháu tưởng nhớ, tri ân. 
Với những người lính khi thành lập đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, lệnh vua ban xuống không chỉ là lệnh mà còn là tấm lòng, ý chí quyết tâm ra đi vì đất nước. Ảnh: Những sắc phong, chỉ dụ của nhà Nguyễn cho Hải đội Hoàng Sa.
  Với những người lính khi thành lập đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, lệnh vua ban xuống không chỉ là lệnh mà còn là tấm lòng, ý chí quyết tâm ra đi vì đất nước. Ảnh: Những sắc phong, chỉ dụ của nhà Nguyễn cho Hải đội Hoàng Sa.

Trong chuyến hải trình dài ngày đến Hoàng Sa, Trường Sa, người lính đã biết là sẽ gặp hiểm nguy do sóng to, gió lớn rình rập, hoặc những nguyên nhân nào khác thì cũng sẽ lấy lòng biển khơi làm nơi mai táng mình. Ảnh: Ông Nguyễn Cậu, trưởng làng An Vĩnh, đánh trống xuất quân hùng binh Hoàng Sa.
 Trong chuyến hải trình dài ngày đến Hoàng Sa, Trường Sa, người lính đã biết là sẽ gặp hiểm nguy do sóng to, gió lớn rình rập, hoặc những nguyên nhân nào khác thì cũng sẽ lấy lòng biển khơi làm nơi mai táng mình. Ảnh: Ông Nguyễn Cậu, trưởng làng An Vĩnh, đánh trống xuất quân hùng binh Hoàng Sa. 
Ngoài những vật dụng cần thiết mang theo để sống cho chuyến đi, mỗi quân binh của Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn chuẩn bị cho mình 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Ảnh: Dây mây đội quân binh Hoàng Sa mang theo để đồng đội bó xác nếu hi sinh trên biển.
 Ngoài những vật dụng cần thiết mang theo để sống cho chuyến đi, mỗi quân binh của Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn chuẩn bị cho mình 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Ảnh: Dây mây đội quân binh Hoàng Sa mang theo để đồng đội bó xác nếu hi sinh trên biển.
Nếu trong chuyến đi, chẳng may qua đời thì các đồng đội sẽ dùng manh chiếu bó thi hài và thẻ bài làm một, dùng 7 nẹp tre kẹp lại rồi lấy 7 sợi dây mây buộc chặt. Sau vài nghi lễ giản đơn, thi hài được thả xuống biển. Ảnh: 7 nẹp tre để nẹp thi hài đồng đội.
 Nếu trong chuyến đi, chẳng may qua đời thì các đồng đội sẽ dùng manh chiếu bó thi hài và thẻ bài làm một, dùng 7 nẹp tre kẹp lại rồi lấy 7 sợi dây mây buộc chặt. Sau vài nghi lễ giản đơn, thi hài được thả xuống biển. Ảnh: 7 nẹp tre để nẹp thi hài đồng đội. 
Tất cả đồng đội đều cúi đầu gửi nguyện ước lên trời xanh rằng thi hài đã mất sẽ trôi dạt vào bờ để người dân biết tên họ, quê quán người hi sinh vì nước mà chôn cất. Ảnh: Đôi chiếu mang theo để bó thi hài.
 Tất cả đồng đội đều cúi đầu gửi nguyện ước lên trời xanh rằng thi hài đã mất sẽ trôi dạt vào bờ để người dân biết tên họ, quê quán người hi sinh vì nước mà chôn cất. Ảnh: Đôi chiếu mang theo để bó thi hài. 
Ngày nay, tại nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn lưu giữ những hành trang năm xưa quân binh mang theo. Đó là 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Hành trang đó như để khẳng định một tấm lòng, một tinh thần cảm tử quyết tâm ra đi của những hùng binh khi ấy. Ảnh: Bài vị khắc tên họ, quê quán của các quân binh Hoàng Sa, Bắc Hải. (Ảnh: Tam Hiệp - Hà Kiều).
 Ngày nay, tại nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải còn lưu giữ những hành trang năm xưa quân binh mang theo. Đó là 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài khắc tên họ, quê quán. Hành trang đó như để khẳng định một tấm lòng, một tinh thần cảm tử quyết tâm ra đi của những hùng binh khi ấy. Ảnh: Bài vị  khắc tên họ, quê quán của các quân binh Hoàng Sa, Bắc Hải. (Ảnh: Tam Hiệp - Hà Kiều). 

Tin mới