“Kinh tế trong bối cảnh 4.0 cần phải biết tận dụng“

(Kiến Thức) - Sáng ngày 2/10, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức chương trình diễn đàn “Tái cơ cấu nền kinh tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

“Kinh tế trong bối cảnh 4.0 cần phải biết tận dụng“
Tham dự chương trình “Tái cơ cấu nền kinh tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”có Ths. Lê Duy Tiến - Phó Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; TSKH. Nghiêm Vũ Khải - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Phú Hoa - Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp, Ban Kinh tế Trung ương cùng đông đảo các đại biểu là nhà khoa học.
TSKH. Nghiêm Vũ Khải - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phát biểu khai mạc chương trình.
 TSKH. Nghiêm Vũ Khải - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phát biểu khai mạc chương trình.
Trình bày tham luận tại chương trình, GS.TSKH. Lê Du Phong - Nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu. Đặc biệt là các tư tưởng và quan điểm đưa ra trong các Bộ luật và Luật đã có những thay đổi lớn so với trước đổi mới, phù hợp hơn với thực tiễn của đất nước, hội nhập mạnh hơn với khu vực và thế giới.
GS.TSKH. Lê Du Phong cũng đồng thời đưa ra viện dẫn về những thành tựu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam đạt được trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, GS.TSKH. Lê Du Phong cho rằng, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn hạn chế như: Trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam đang còn ở mức khá thấp; Nền kinh tế nội địa của Việt Nam yếu và phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài.
Toàn cảnh chương trình diễn đàn "Tái cơ cấu nền kinh tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư".
 Toàn cảnh chương trình diễn đàn "Tái cơ cấu nền kinh tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư".
GS.TSKH. Lê Du Phong cho rằng, cần phải “tận dụng” cuộc “cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cơ hội tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam”, gọi tắt là cách mạng 4.0.
“Có thể nói cả thế giới giờ đây đang sôi nổi, hào hứng đón nhận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (gọi tắt là cách mạng 4.0). Cách mạng công nghiệp 4.0 theo cách diễn đạt của Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ tịch lần thứ nhất (bắt đầu tư năm 1708 ở Vương Quốc Anh) là việc “sử dụng năng lượng nước và hơi nước để thực hiện cơ giới hóa sản xuất”; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là “sử dụng điện năng để sản xuất hàng loạt”; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba là “sử dụng điện và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất” và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là “sự kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm lu mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.
Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được diễn ra trên mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, chứ không bó hẹp trong một số lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp như các cuộc cách mạng lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Có thể nói, đây là cơ hội đặc biệt thuận lợi đối với sự phát triển của nên kinh tế Việt Nam. Sở dĩ như vậy vì nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh Việt Nam có lợi thế như; Nông nghiệp, y dược, chế biến thực phẩm, công nghệ thông tin, máy tính…, là những nội hàm mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hướng tới. Chính vì thế, tái cơ cấu lại kinh tế theo hướng: Nghiên cứu, lựa chọn những ngành, những lĩnh vực Việt Nam thực sự có ưu thế để đi ngay vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ đó tạo ra sự đột phá, giúp nên kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, sớm đuổi kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới là yêu cầu hết sức bức xúc hiện nay, và đây cũng là vận may đặc biệt cần phải biết tận dụng” - GS.TSKH. Lê Du Phong bày tỏ quan điểm.
Tại chương trình PGS.TS. Nguyễn Quang Thái - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học và Kinh tế Việt Nam cho rằng, trong các nghiên cứu trước đây thường chủ yếu nên thành tích cải thiện chỉ tiêu GCI toàn cầu của Việt Nam mà hầu như không phân tích sâu, đây là những yếu kém cần khắc phục bằng những dân chứng cụ thể, nhất là những chỉ tiêu bị tụt lùi và ở mức thấp trong nhóm 1/3 nên kinh tế kém nhất toàn cầu.
Thông quan những quan điểm phân tích, PGS.TS. Nguyễn Quang Thái cho rằng, từ năm 2016 các nước đã thực hiện chương trình nghị sự hướng tới phát triển bền vững năm 2030, gọi chung là mục tiêu SDG, với 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam dù xét trên chỉ tiêu cạnh tranh toàn cầu GCI mang tính toàn diện, hay từng chỉ tiêu bộ phân như HDI, GII, SDG, CMPI… đều có ý nghĩa quan trọng.
“Việt nam không nên tự xây dựng chỉ số cạnh tranh riêng của mình mà nên sử dụng các tiêu chí quốc tế được sử dụng rộng rãi. Đặc biệt nên chọn tiêu chí cạnh tranh toàn cầu GCI của diễn đàn kinh tế thế giới WEF và chỉ tiêu phát triển bền vững SDG của Liên hợp quốc UN làm chỉ tiêu tổng quát, kết hợp với các tiêu phụ về KHCN, đồi mởi sáng tạo, cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển con người…, làm chỉ tiêu phụ để phân tích, so sánh, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Với các chỉ tiêu cạnh tranh được lựa chọn, nên phân tích để trong giai đoạn 3-5 năm có thể tập trung cải thiện các chỉ tiêu còn yếu kém chung, trong chính sách thúc đẩy cơ cấu lại kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trưởng. Đồng thời duy trì thứ hạng cao của các chỉ tiêu thành phần khác. Từ đó, cải thiện các chỉ tiêu chung về nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Đối với ngành và mỗi vùng, cũng có thể nghiên cứu để tận dụng các tiềm năng và lợi thế riêng có, hạn chế các khó khăn thách thức để không ngừng vươn lên trong chính sách phát triển hài hòa, bền vững”, PGS.TS. Nguyễn Quang Thái nêu.
Tại chương trình sáng nay, nhiều tiến sĩ, nhà khoa học khác cũng đồng thời đưa ra các quan điểm, tham luận của mình trong việc tái cơ cấu nền kinh tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Quân đội Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Trong thời đại công nghiệp 4.0, hai yếu tố quyết định thành bại của một cuộc chiến là con người và vũ khí thì con người vẫn giữ vai trò quyết định.

Quân đội Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Cẩn trọng với quan điểm “vũ khí luận”

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã khởi động và sẽ làm cho thế giới biến đổi rất nhanh theo cấp số nhân trên mọi lĩnh vực. Những thành tựu mới về khoa học-công nghệ sẽ nhanh chóng được các nước áp dụng vào lĩnh vực quân sự-quốc phòng.

Trong tương lai gần, khi một cuộc chiến tranh công nghệ cao xảy ra, máy tính sẽ tính toán rất nhanh ý đồ tác chiến của người chỉ huy để đưa ra phương án tiến công tối ưu cho các lực lượng, phương tiện, vũ khí thực hành tác chiến; công nghệ nano có thể giúp các vũ khí tiến công có khả năng tàng hình trong mọi điều kiện; trí tuệ nhân tạo có thể tạo ra những người lính robot thông minh, chiến đấu liên tục không biết mệt mỏi với sức mạnh và sự chịu đựng phi thường; tác chiến mạng có thể làm thay đổi cục diện chiến trường... Chiến tranh tương lai sẽ nặng về tìm diệt chứ không phải phá hủy bởi phá hủy sẽ gắn rất gần với sự hủy diệt. Như vậy, về đại thể, lý luận chiến tranh nói chung đang thay đổi và quân đội các nước đều phải nghiên cứu, điều chỉnh nghệ thuật quân sự để phục vụ mục tiêu hoạt động quân sự của nước mình.

Trong tình hình đó, Việt Nam vẫn kiên trì với mục tiêu xây dựng quân đội được vạch ra trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Trong đó, một số lực lượng như hải quân, phòng không-không quân, cảnh sát biển, thông tin, tác chiến điện tử, tác chiến không gian mạng... sẽ tiến thẳng lên hiện đại.

Có ý kiến cho rằng, vào thời điểm hiện nay mà việc xây dựng quân đội vẫn chỉ xác định “từng bước hiện đại” là “giậm chân tại chỗ” và khó bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi một cuộc chiến tranh chống xâm lược xảy ra. Họ viện dẫn những cuộc chiến tranh gần đây như Iraq, Nam Tư, Libya hay Syria... những vũ khí công nghệ cao với uy lực lớn, độ chính xác cao, tầm hoạt động rất xa có thể tìm diệt mục tiêu trong mọi điều kiện môi trường mặt đất, mặt nước, trên không hay ngầm trong lòng đất, lòng đại dương. Sự lo lắng ấy là cần thiết, nhưng việc tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao dễ sa vào quan điểm “vũ khí luận” của các nhà lý luận quân sự phương Tây.
 
Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh Lịch sử từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam, chúng ta luôn coi trọng vũ khí-trang bị nhưng trong mọi cuộc chiến tranh giữ nước, Việt Nam luôn phải chấp nhận sự hạn chế hơn kẻ thù xâm lược về vũ khí. Chính điều đó đã làm nên nghệ thuật giữ nước “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” nhưng biết “lấy nhỏ thắng lớn”. Trần Quốc Tuấn đã “dĩ đoản binh chế trường trận”, đoản binh là vũ khí đánh gần (gươm, dao) của những người nông dân Đại Việt chống lại trường trận-vũ khí đánh xa (cung nỏ) của kị binh Nguyên Mông. Điều cốt lõi của nghệ thuật này là dùng sức mạnh văn hóa của một dân tộc nhỏ để đánh bại uy vũ của một đội quân xâm lược lớn. Trần Quốc Tuấn đã nhận ra quy luật, một quân đội dù hung bạo đến đâu cũng không thể thắng được một dân tộc có chiều sâu văn hiến. Đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa tinh hoa tư tưởng quân sự của Trần Quốc Tuấn khi “dùng gậy làm cờ tập hợp bốn phương manh lệ”. Nguyễn Trãi đã xây dựng sức mạnh cứu nước cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những tầng lớp nông dân khốn cùng nhất trong xã hội. Cần phải thấy rằng, nếu như Nguyễn Trãi cùng nghĩa quân Lam Sơn đại thắng quân Minh thì trước đó, cha con Hồ Quý Ly với quân đội đông đảo lên đến trăm vạn người, với thành cao hào sâu và súng thần công vào hàng “công nghệ cao” thời điểm đó lại chịu thất bại bởi đội quân xâm lược này. Đến thế kỷ 20, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển những tinh hoa tư tưởng của Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi thành đường lối chiến tranh nhân dân với 4 nội dung cốt lõi: “Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh”. Chính đường lối đúng đắn này, khi thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân là nguyên nhân quyết định làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải có quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam kể từ khi ra đời cho đến nay đã có nhiều tên gọi: “Tự vệ đỏ”, “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, “Giải phóng quân”, “Vệ quốc đoàn”, “Quân đội quốc gia Việt Nam” nhưng chỉ đến khi mang tên Quân đội nhân dân Việt Nam thì mới thấy trúng, thấy đúng với bản chất truyền thống. Vì lẽ đó, tên gọi này đã đứng vững và định hình trong lòng dân tộc qua mọi thử thách của thời gian. Thế giới có thể biến đổi từng ngày, từng giờ nhưng Quân đội ta chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc khi Quân đội là của dân, do dân và vì dân. Cho nên, trong 4 nội dung mục tiêu xây dựng quân đội hiện nay, nội dung “cách mạng” đã được đặt lên trên hết, rồi mới đến các nội dung “chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Nội hàm của khái niệm “cách mạng” đòi hỏi quân đội phải “trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân”. “Cách mạng” cũng có nghĩa là yêu nước, người Việt Nam không chỉ có tinh thần yêu nước mà đã nâng tinh thần ấy lên thành “chủ nghĩa yêu nước”. Vì thế, xây dựng quân đội phải lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.
 
Quân đội chỉ cần “trung với nước, hiếu với dân” là đủ?

Có người nói rằng, quân đội chỉ cần “trung với nước, hiếu với dân” là đủ? Nhưng đó là luận điệu của những người lập lờ, ba phải! Thực tế lịch sử loài người chưa bao giờ tồn tại một nhà nước chung chung, trừu tượng. Quân đội của bất kỳ quốc gia nào hiện nay cũng đều tuyên thệ trung thành với hiến pháp và với nguyên thủ hợp hiến (nhà vua, tổng thống, thủ tướng hoặc chủ tịch nước).

Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động không có mục đích tự thân, Đảng hoạt động vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cho nên, xây dựng “Quân đội nhân dân Việt Nam trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân” là một chỉnh thể, nhằm bảo đảm tính lịch sử, cụ thể cho mục tiêu xây dựng quân đội về chính trị. Chỉ khi xây dựng được một quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nguồn gốc vững chắc “từ nhân dân mà ra”, có lý tưởng cao đẹp “vì nhân dân mà chiến đấu”, cán bộ, chiến sĩ của quân đội mới giành chiến thắng trong cuộc chiến tâm lý về “vũ khí luận” của đối phương.

Thực tế những cuộc chiến tranh từ đầu thế kỷ 21 đến nay cho thấy, muốn giành chiến thắng trong cuộc chiến này, điều tiên quyết là quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, niềm tin “quyết chiến, quyết thắng” vào nghệ thuật quân sự của chính mình.

Vào lúc cả thế giới bàn về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì cũng là lúc Việt Nam kỷ niệm 45 năm Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”. Đây cũng là một chiến dịch mà phía quân đội Mỹ đã sử dụng những công nghệ chiến tranh cao nhất của mình ở thời điểm đó. Đặc biệt là việc sử dụng “siêu pháo đài bay B52” mà người Mỹ tin rằng nó không thể bị đánh bại. Nhưng Việt Nam đã dùng phương pháp để chiến thắng vũ khí tối cao của quân đội Mỹ.
 
Phương pháp chiến thắng hay nghệ thuật quân sự Việt Nam là ở chỗ chúng ta đã dự đoán chính xác, chuẩn bị kỹ càng, nắm chắc địch, không một chút hoang mang, bối rối trước vũ khí tối tân của địch, phân tích kỹ những điểm yếu của địch để phát huy sức mạnh của thế trận phòng không nhân dân.

Trước khi chiến dịch diễn ra, không ai nghĩ Việt Nam có thể giành chiến thắng. Thế nhưng chúng ta đã dám đánh và đánh thắng, thắng bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân, bằng việc vận dụng sáng tạo những bài học giữ nước của cha ông. Không ai có thể tưởng tượng những trận địa tên lửa giả làm bằng cót tre lại lừa được những đôi “mắt thần” của B52. Không ai nghĩ tên lửa sơ-rai thông minh của địch lại bị các chiến sĩ ra-đa của Việt Nam vô hiệu hóa bằng biện pháp thủ công là tắt máy đột ngột và xoay cần ăng-ten đi hướng khác. Chính các chuyên gia quân sự Xô Viết cũng không nghĩ rằng, tên lửa SAM2 khi vào tay bộ đội Việt Nam, với tài trí “vạch nhiễu tìm thù” và các phương pháp “bắn ba điểm” và “bắn vượt nửa góc” lại trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng với “siêu pháo đài bay B52” như thế!

Rõ ràng, vũ khí công nghệ cao dù có hiện đại, tinh khôn đến đâu cũng vẫn có điểm yếu. Trong thời đại công nghiệp 4.0, hai yếu tố quyết định thành bại của một cuộc chiến tranh là con người và vũ khí thì con người vẫn giữ vai trò quyết định.

Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần phải có một chiến lược xây dựng quân đội phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, tức là phải “từng bước hiện đại” với bước đi và cách làm vững chắc.

Chúng ta có niềm tin mãnh liệt vào Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” sẽ luôn hội tụ “sức mạnh mềm” của nền văn hóa giữ nước, đủ sức đánh bại mọi “vũ khí nóng”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Dự đoán giật mình từ người ăn mày TQ dùng ví điện tử xin tiền

(Kiến Thức) -  Những ngày qua, dư luận thế giới xôn xao trước việc một ăn mày ở gần hồ Vương Phủ, thành phố Tề Nam, tỉnh Sơn Đông, dùng ví điện tử để xin tiền. Người ăn mày này đã đeo bảng in mã QR lên cổ đi xin tiền.

Dự đoán giật mình từ người ăn mày TQ dùng ví điện tử xin tiền
Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện đang bùng nổ ở nhiều nước trên thế giới. Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới, nhận định Cách mạng Công nghiệp 4.0 phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi nước trên thế giới.
Những ngày qua, dư luận thế giới xôn xao trước việc một ăn mày ở gần hồ Vương Phủ, thành phố Tề Nam, tỉnh Sơn Đông, dùng ví điện tử để xin tiền. Người ăn mày này đã đeo bảng in mã QR lên cổ đi xin tiền.

Cách mạng Công nghiệp 4.0: Đổi mới mô hình đào tạo

Hội nghị khoa học đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 đã diễn ra tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ngày 26/2. Hội nghị tập trung trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ CMCN 4.0.

Cách mạng Công nghiệp 4.0: Đổi mới mô hình đào tạo
Tham dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh; Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng; Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel - Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng; hơn 300 nhà quản lý, tiến sĩ, nhà khoa học của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Các đại biểu dự Hội nghị khoa học đào tạo nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Các đại biểu dự Hội nghị khoa học đào tạo nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 

Đọc nhiều nhất

Chân dung 15 Bí thư tỉnh, thành vừa được Bộ Chính trị bổ nhiệm

Chân dung 15 Bí thư tỉnh, thành vừa được Bộ Chính trị bổ nhiệm

(Kiến Thức) - Đến thời điểm này đã có 15 tỉnh, thành thay đổi nhân sự bí thư. Trong đó, có một ủy viên Bộ Chính trị, 8 ủy viên TƯ, 5 ủy viên dự khuyết. Đây là những nhân tố được Bộ Chính trị đặt niềm tin sẽ hạt nhân mang lại những thành tựu kinh tế, xã hội cho các địa phương.
Loạt giang hồ đình đám mạng xã hội và hồi kết chẳng như mơ

Loạt giang hồ đình đám mạng xã hội và hồi kết chẳng như mơ

(Kiến Thức) - Những năm qua, hiện tượng giang hồ mạng nổi lên với nhiều hoạt động nhức nhối, ảnh hưởng đến trật tự xã hội và tư tưởng một bộ phận giới trẻ. Điều đáng nói, loạt giang hồ đình đám trên mạng xã hội này lại có hồi kết chẳng như mơ.

Tin mới

Giá điện sinh hoạt mới lên tới 3.700 đồng/kWh

Giá điện sinh hoạt mới lên tới 3.700 đồng/kWh

Bộ Công Thương đề xuất cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt còn 5 bậc thay vì 6 bậc. Bậc giá điện cao nhất có thể lên tới hơn 3.700 đồng/kWh, cao hơn so với mức cao nhất trong biểu giá hiện hành.