Thú chơi Tết độc của vua chúa Việt xưa

Vua chúa Việt xưa rất coi trọng Tết Nguyên đán và có các nghi lễ và thú vui chơi Tết riêng biệt...

Trong sử cũ, vào dịp đón năm mới, thiên tử thường nhân việc này mà làm những việc ích nước, lợi dân, như vua Lê Đại Hành năm Đinh Hợi (987) “cày ruộng tịch điền ở núi Đọi... lại cày ở núi Bàn Hải” (theo Việt sử lược). Lại có vua nhân thời gian đó đổi niên hiệu như Lý Huệ Tông năm Tân Mùi (1211) đổi niên hiệu là Kiến Gia; vua Trần Thánh Tông ngày Một Tết năm Quý Dậu đổi niên hiệu là Bảo Phù; cũng ngày ấy năm Giáp Tý (1324), vua Trần Minh Tông đổi niên hiệu là Đại Bảo...
Ngoài những việc trên, có vua còn phong tước, tổ chức thi cử, ra luật lệnh, sai người đi sứ, thậm chí xuất quân tiễu trừ giặc giã... Ví như vào nhà Trần năm Mậu Ngọ (1258) sau chiến thắng quân Mông Cổ xâm lược lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông ngày mùng Một Tết Nguyên đán đã thiết triều, cho trăm quan vào chầu, vỗ về dân chúng để yên nghiệp nước, định công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công chống giặc ngoại xâm.
Thời vua Lê Thái Tông, thường vào dịp Tết, nhân ngày mùng Một tháng Giêng, vua cùng bá quan đến yết Thái miếu như cách ghi nhớ công ơn giành lại đất nước, sáng lập triều đại của tổ tông. Đồng thời không quên quan hệ ngoại giao hữu hảo, vua thân chính đến gặp sứ thần nhà Minh. Công việc xong xuôi, vua về cung mặc áo trắng coi chầu, cho dàn nhạc nổi lên điệu Bình Ngô phá trận, các quan mặc cát phục dâng biểu mừng vua, chúc cho muôn họ no đủ, đất nước thái bình. Sau này vua Lê Nhân Tông vẫn duy trì lệ tốt đẹp đó, lại đến ngày mùng Ba tết ban đại yến cho quan lại. “Bính Tỵ (1456), mùa xuân, tháng Giêng, ngày mùng Ba bạn đại yến cho các quan, Lạng Sơn vương là Nghi Dân cùng dự” (trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
Thu choi Tet doc cua vua chua Viet xua
 
Hay như thời nhà Nguyễn, ngay từ mồng Một tháng Chạp âm lịch, vua Nguyễn đã cho tổ chức lễ Ban sóc, tức việc phân phát lịch của nhà vua cho bá quan và hoàng thân quốc thích. Tiếp đó là lễ Phất đức (quét dọn, lau chùi). Trong lễ này vua cho người lau chùi dọn dẹp các ấn ngọc, kim sách trong điện Cần Chánh. Tới ngày 30 Tết, Khâm Thiên Giám chọn giờ lành để bộ Lễ dựng cây nêu. Cây nêu của vua được dựng rồi mới đến các dinh thự, chùa chiền.
Từ năm 1786, vua Tự Đức quy định cứ tới giờ Thìn (8-10 giờ sáng) ngày cuối năm, tất cả cây nêu sẽ được dựng lên khắp kinh thành. Lễ tế Nam Giao là một trong những lễ tế quan trọng đầu xuân của các vua chúa Nguyễn. Sáng mồng một Tết, tất cả bá quan văn võ tề tựu trước sân điện Thái Hòa mừng vua. Tại các miếu thờ trong vòng 4 ngày, vua đều cho cúng tế, thắp hương nghi ngút, thậm chí mỗi lần cúng phải có 32 món ăn riêng do sở Lý Thiện đích thân nấu. Ngoài những nghi lễ trong cung, mỗi dịp Tết đến, các vua thời nhà Nguyễn cũng ra phía Bắc ngoài Hoàng Thành làm lễ Tịch Điền. Trong lễ này, vua cùng các hoàng thân đích thân cày ruộng để làm gương khuyến khích người dân trong nước siêng năng việc đồng áng.
Sau khi đã hoàn thành các công việc trong vai trò thiên tử, vua chúa cũng bắt đầu thời gian nghỉ ngơi, thư giãn dịp Tết. Các vua cúa cũng rất thích thú với các trò chơi trong dịp lễ tết. Đầu tiên phải kể tới là trò chơi Đầu hồ. Đây là trò chơi xuất phát từ thời nhà Chu, Trung Quốc (1122 – 249 TCN) và được mệnh danh là trò chơi có nguồn gốc lâu đời, tồn tại dài nhất trong lịch sử Trung Hoa. Trong tiếng Hán, “đầu” có nghĩa là ném vào, còn “hồ” là cái bình. “Đầu hồ” phần lớn chỉ phổ biến ở tầng lớp vua chúa, quan lại và giới thượng lưu xưa. Để chơi được “Đầu hồ” cần chuẩn bị một bó 12 que (gọi là thẻ, tượng trưng cho 12 tháng trong năm) vót từ loại gỗ chắc nhưng dẻo, dài cỡ 0,68m. Thứ hai, đó là một chiếc bình không đáy có dáng như nậm đựng rượu, làm bằng đồng, sứ hoặc hỗ. Bình được đặt lên một đế nhỏ có trống nhỏ bên trong. Cuối cùng ở giữa chiếc bình và vị trí đứng người ta đặt một miếng gõ rộng 25cm, dài 40cm, cao khoảng 5cm, gọi là con ngựa hay con cóc.
Khi chơi, vua chúa và quan lại đứng ở vạch cách bình khoảng 2,5cm. Sau đó vua ném thẻ gỗ về phía trước sao cho thẻ gỗ đập vào con cóc rồi nảy lên rơi vào miệng bình. Nếu thẻ rơi trúng sẽ gõ vào trống nhỏ bên dưới, phát ra tiếng “binh, binh”. Tương truyền rằng thời nhà Nguyễn cứ sau buổi yến tiệc trong dịp Tết, vua và các quan thường chơi trò này. Trong số các triều cua, vua Tự Đức và Bảo Đại là hai vua chơi trò này giỏi nhất.
Trò chơi tiếp theo cũng được các vị vua chuộng chơi Tết, đó là “Họa ngự thi”. Hàng năm cứ tới gần Giao thừa, vua nhà Nguyễn lại chọn 4 vị quan trong triều để chơi trò này. Các quan phải đứng đợi trước cửa nhà mình, khi nghe có tiếng ngựa hí, lục lạc kêu của kỵ mã do vua phái tới thì lập tức mặc áo mão để tiếp lệnh vua. Kỵ mã dâng tráp lên cho quan, trong đó có một bài ngự thi (thơ của vua). Quan nhận thơ của vua xong phải ngay lập tức vào vẽ lại bằng giấy hoa tiên. Viên kỵ mã giao xong thơ cho người đầu tiên thì tiếp tục phi ngựa đi giao cho ba vị quan còn lại. Giao thơ cho quan cuối cùng xong, ỵ mã quay lại nhận bài họa của quan đầu tiên và cứ thế cho tới khi nhận hết 4 bức. Vua sẽ đợi trong cung để nhận 4 bài thi này, tự mình kiểm duyệt. Sau đó tới ngày đầu năm mới, vua Nguyễn cho cận thần công bố trước văn võ bá quan. Lúc ấy đích thân vua làm giám khảo, chấm bài và ban thưởng.
Bên cạnh những trò chơi truyền thống mang đậm tính phong kiến xưa, một số vua nhà Nguyễn, điển hình là Bảo Đại (1913-1997) lại có những thú chơi Tết “rất Tây”. Theo lời kể của bà Trần Thị Vui, một cung nữ thời đó, sáng mồng Một Tết, vua cùng Nam Phương hoàng hậu sẽ tới cung Diên Thọ thăm và chúc tết Hoàng Thái hậu Đức Từ Cung để tỏ lòng hiếu thảo. Tại đây, vua nghe nhạc trữ tình phương Tây, đánh cờ domino làm cho không khí thêm vui nhộn. Sau đó, chiều mùng Một và ngày mùng Hai Tết vua đi ô tô xuống Dạ Lê để đánh golf cùng những người bạn nước ngoài. Ngoài ra, vua Bảo Đại còn chơi quần vợt trong sân được xây riêng tại Hoàng thành, biểu diễn Jet ski (chơi motor nước) trên sông Hương ngay những ngày Tết Nguyên đán. Ngay cả trong ngày Tết, vua Bảo Đại vẫn duy trì thói quen chơi thể thao.

Thú chơi Tết cổ truyền của các “thiên tử” Việt Nam

Nước Việt từ thuở dựng nước đến nay, lễ tết, hội hè ngày càng phong phú, đa dạng, cũ mới đan xen. Nhưng, Tết Cả mà dân gian quen gọi là Tết Nguyên đán thì vẫn thế, được hình thành và bảo lưu, phát triển. Cứ mỗi dịp Tết đến, Xuân về, là muôn người nô nức. Vua chúa khi xưa, cũng chờ đón Tết cổ truyền chằng kém muôn dân là mấy. Có điều, mỗi người một thú khác nhau.

Văn khấn sáng mùng Một Tết tại bàn thờ gia tiên

Hai bài văn cổ sau đây thể hiện rõ nội dung khấn cúng theo quan niệm của người Việt dịp Tết đến xuân về.

Đây là bài văn Khấn sáng mùng Một Tết tại bàn thờ gia tiên, và bài văn Cúng yết cáo linh thần ở đền miếu.

Người Trung Quốc cổ đại nghỉ Tết thế nào?

(Kiến Thức) - Thời nhà Tống, Tết âm lịch bao gồm có 3 giai đoạn: mang niên (bận rộn chuẩn bị), quá niên (đón Tết), náo niên (chơi Tết).

Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?
Nhà Đường: Thú vị "tuần lễ vàng" trong năm. Thời cổ đại, năm mới được tính theo lịch âm tức mùng 1 tháng giêng âm lịch. Ở nhà Đường, hoàng đế Đường Huyền Tông từng quy đinh “nguyên chính (tức tết âm lịch, tết Nguyên Đán), đông chí (là một trong 24 tiết trong năm, là ngày 21,22,23 tháng 12) đều được nghỉ 7 ngày.” Như vậy, cả năm sẽ được hưởng 14 ngày lễ tết và đây được coi là hai “tuần lễ vàng” trong năm. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-2
Trên thực tế, đến thời kỳ cuối nhà Đường, đã có 3 “tuần lễ vàng” và rất nhiều các kỳ nghỉ ngắn (được gọi là tiểu tuần lễ vàng). Trong quyển thứ 82 của bộ “Đường hội yếu” có một đoạn ghi chép về sự điều chỉnh các kỳ nghỉ lễ: Đường Đức Tông trinh nguyên niên, tết hàn thực được điều chỉnh nghỉ từ 3 ngày lên 7 ngày, cùng với tết âm lịch, đông chí thì trong năm đã có 3 tuần lễ vàng. Các kỳ nghỉ ngắn như: nguyên tiêu, tết trung thu, tết lạp bát ( tức ngày mùng 8 tháng chạp với tục ăn cháo lạp bát), sinh nhật của Đường Thái Tông đều quy định được nghỉ 3 ngày.  
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-3
Ngoài ra, còn 21 lễ tết truyền thống khác được nghỉ 1 ngày, như vậy theo quy định của luật pháp triều đình nhà Đường thì thời gian nghỉ lễ trong một năm nhiều hơn chúng ta rất nhiều. Lịch nghỉ tết được quy định theo hình thức “nguyên chính tiền hậu các san nhật” tức lấy ngày mùng 1 tết làm trung tâm, sẽ nghỉ 3 ngày trước và sau  mùng 1 tết, thêm ngày mùng 1 nữa là đủ 7 ngày. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-4
Nhưng không phải tất cả mọi người đều nghỉ tết theo quy định. Các thầy giáo và học sinh tư thục thường nghỉ tết 1 tháng bắt đầu từ 20 tháng chạp đến 20 tháng Giêng năm sau mới quay lại trường. Nông dân không có lịch nghỉ theo quy định, nếu việc cần thiết thì mùng 1 Tết vẫn phải ra đồng làm. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-5
Các quan lại trong triều cũng không được nghỉ cùng lúc giống nhau. Luật pháp triều Đường có hai quy định. Thứ nhất, sáng sớm mùng 1 Tết tất cả văn võ bá quan và quan viên cao cấp ở các địa phương đều phải thượng triều chúc tết hoàng thượng. Quy định này đã khiến cho những quan viên cao cấp ở các địa phương không thể đoàn viên cùng gia đình trong ngày mùng 1 Tết. Quy định 2, trưởng quan tại mỗi địa phương không được phép rời nha môn về quê vào dịp tết. Điều này đã vô hình quy định cho các quan lại tại địa phương không bao giờ được đón tết tại quê nhà.
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-6
Triều Tống: Nhân viên công vụ địa phương được nhận lương vào ngày 20 tháng Chạp và về quê đón. Tết âm lịch được gọi là Nguyên Đán. Tết âm lịch bao gồm có 3 giai đoạn: mang niên (bận rộn chuẩn bị), quá niên (đón tết), náo niên (chơi tết), nguyên tiêu (rằm tháng giêng) cũng chính là một phần của “niên”. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-7
Thời nhà Tống, Tết âm lịch quy đinh được nghỉ 7 ngày (thông thường là trước và sau mùng một 3 ngày), nguyên tiêu nghỉ 7 ngày, do hai tết này liền nhau nên thời gian nghỉ kéo dài lên tới nửa tháng. Thân phụ của Tống Thái Tổ tạ thế vào mùng 7 tháng Giêng nên thành lệ sẽ được nghỉ thêm 3 ngày trước sau ngày kị. Thân mẫu của Tống Nhân Tông sinh nhật ngày mùng 10 tháng Giêng nên được nghỉ thêm 3 ngày. Trước đó, đông chí đã nghỉ 7 ngày, tết Thiên khánh (tức ngày mồng 3 tháng Giêng, đây là Tết cổ truyền của người Hán thời Tống, còn được gọi là tiểu niên triều hoặc xích cẩu nhật) được nghỉ 7 ngày, như vậy là cả tết âm lịch đã kéo dài hơn 1 tháng. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-8
Nếu là nhân viên công vụ tại địa phương còn có thêm một khoản phúc lợi đặc biệt đó gọi là “phong ấn” vào ngày 20 tháng Chạp hàng năm, nhận lương và sẽ được nghỉ về quê đón tết cùng người thân. Kỳ nghỉ này sẽ kéo dài 1 tháng cho đến ngày 20 tháng Giêng năm sau mới quay lại nha môn “khai ấn” tiếp tục công việc cho một năm mới. Nếu là nhân viên công vụ cao cấp ở kinh thành thì mùng 1 không được phép nghỉ cũng không được phép xin nghỉ. Sau khi đón giao thừa xong, sáng sớm tinh mơ, phải chuẩn bị trang phục, mũ mão chỉnh tề vào cung để dự hội “chính đán đại triều hội”. Văn võ bá quan trong triều lần lượt chúc tết hoàng thượng, gọi là “triều chúc”. Trong triều hội, các quan ngoại giao của các nước như Liêu, Cao Li, Tây Hạ, Vu Điền, Hồi Hột sẽ dâng quà mừng lên hoàng thượng. Sau khi tan hội, hoàng đế ban thưởng cho mỗi người 1 chiếc huy hiệu và luôn luôn phải cài lên mũ.  
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-9
Ngoài việc cùng mở hội và vui xuân với Hoàng thượng, vào tiết đông chí, hoàng gia thiết tiệc để các quan lại cùng đến vui với hoàng thượng. Mùng một Tết thông thường là mở triều hội và ăn tiệc chính đán với quy mô rất lớn, các văn võ bá quan trong triều có thể đưa gia đình đến dự. Sau đó đến triều hội thông thường, hoàng cung cũng vẫn tổ chức ăn uống được gọi là “tứ thực” (ban cho ăn). “Tứ thực” còn được gọi là “lang xan” hoặc “ lang hạ xan” (tiệc ở hành lang). Dưới triều Tống thì “lang hạ xan” rất nổi tiếng, theo ghi chép trong “Tống hội yếu” thì tiệc Lang hạ xan được bố trí ở hai dãy hành lang đông tây của hai bên tả hữu cần chính môn bắc, hành lang phía đông là dành cho quan văn ngồi, phía bắc là dành cho quan võ, đây là những quy định tính bắt buộc. 
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-10
Nếu là dân thường thì không có những quy định đón tết riêng. Bắt đầu từ mùng 1 tết, Khai Phong phủ ra thông báo cho phép dân thường được tham gia quan phốc 3 ngày tức là được dùng thực phẩm, rau quả, thịt gà ngan cá, hoa quả, hoa tươi, gạo châu củi quế, lụa là gấm vóc, quần áo mũ mão, gương lược hay mĩ phẩm thậm chí cả rượu cũng có thể mang đến để tham gia quan phốc. Người chơi phải chấp nhận thắng thua. Trong tháng Giêng, Khai Phong phủ cho dựng cổng chào hai bên đường. Người dân có thể tranh thủ thời gian nhàn rỗi nghỉ ngơi của mình ngắm hội đèn, thưởng thức ca nhạc kịch trên phố (được bố trí ở mặt phố lớn phía chính nam hoàng cung), cảnh tượng đông vui náo nhiệt, âm thanh rộn rã khắp nơi.
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-11
Triều Minh, Thanh: Đông chí, Tết âm lịch, nguyên tiêu nghỉ liền 1 tháng. Triều đình dần dần giảm bớt thậm chí còn cắt bỏ chế độ “ tuần hưu” (nghỉ 10 ngày) cả năm chỉ quy định có 3 tiết khánh chính tức là đông chí, tết âm lịch và sinh nhật hoàng thượng. Thêm những tiết nhỏ như nguyên tiêu, trung nguyên ( rằm tháng 7)... thì mỗi năm tổng cộng được nghỉ hơn 50 ngày. Đến nhà Thanh về cơ bản vẫn quy định nghỉ lễ trong một năm dựa theo những quy định sẵn có của nhà Minh. Việc triều đình cắt giảm bớt những ngày nghỉ lễ đã bị hầu hết quan lại phản đối. Sau này, triều đình đã thêm vào kỳ nghỉ đông nên cả kỳ nghỉ kéo dài trong 1 tháng. Có thể nói, việc thêm kì nghỉ đông đó là sự điều chỉnh bù vào những ngày nghỉ lễ đã bị giảm bớt trong quy định.
Nguoi Trung Quoc co dai nghi Tet the nao?-Hinh-12
Đến nhà Thanh, kỳ nghỉ được gọi là “ tháng vàng” lại tiếp tục được quy đinh lại. Một năm 3 tiết đông chí, Nguyên đán, Nguyên tiêu được tính từ khi các quan lại và nhân viên công vụ phong ấn. Trong lịch sử các vương triều phong kiến chỉ có quy định nghỉ lễ tết cho các quan viên. Dân thường thì nghỉ ăn tết theo tập tục cổ truyền. Những tiểu thương sẽ nghỉ ăn một số tết đặc trưng của ngành nghề riêng, ví dụ như ngày giỗ tổ nghề. Nông dân cũng có những ngày tết đặc biệt như tết thờ thần thổ địa hay còn gọi là “xã nhật” vào mùa xuân và mùa thu.

Đọc nhiều nhất

Tin mới