Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã chết vì nguyên nhân gì?

Gia Cát Lượng đã bệnh chết trong thời điểm chiến trận nổ ra, để lại nhiều bí ẩn cho hậu thế.

Nhắc đến Tam quốc, chúng ta thường nghĩ ngay đến Gia Cát Lượng, vị thừa tướng anh minh lỗi lạc với tài trí mưu lược kinh người khiến các danh tướng thiện nghệ nhất cũng phải run sợ.
Cả đời của Gia Cát Lượng để lại cho hậu thế vô số chiến công lẫy lừng và những bài học đắt giá, thậm chí đến khi chết đi còn khiến đại quân của Tư Mã Ý sợ hãi và thối lui.
Thoi Tam Quoc, Gia Cat Luong da chet vi nguyen nhan gi?
Hình ảnh nhân vật Gia Cát Lượng trên phim. Ảnh: Sohu
Thế nhưng một nhân vật truyền kỳ như vậy lại đột ngột chết đi, để lại bao niềm hối tiếc cùng bí ẩn cho nghìn đời sau.
Năm 234, Gia Cát Lượng tiến hành chuyến Bắc phạt lần 5, đồng thời đây cũng là trận chiến cuối cùng của ông.
Gia Cát Lượng cho quân đóng ở vùng Ngũ Trượng Nguyên thì lâm bệnh nặng rồi qua đời khi 54 tuổi. Cả đời Gia Cát Lượng tinh thông chiến lược, quán triệt thiên địa, thế nhưng cuối cùng lại không thể thắng nổi mệnh trời. Mưu sĩ dưới trướng Gia Cát Lượng có tài vận dụng ngũ hành, am tường thuật toán, bày trận Thất tinh đăng (trận đồ phong thủy có tác dụng trấn sát, cầu may) để kéo dài tuổi thọ cho thầy nhưng không thành công.
Hậu thế vô cùng hiếu kỳ trước cái chết của Gia Cát Lượng. Rốt cuộc vị quân sư lỗi lạc thiên hạ đã mắc phải bệnh gì mà chết ngay trong chiến trường dầu sôi lửa bỏng như vậy?
"Tam quốc chí" có ghi chép, tháng 8/234, Gia Cát Lượng bệnh chết, còn về chứng bệnh cụ thể thì không hề có bất kỳ thông tin nào ngoài biểu hiện không ngừng ói ra máu.
Trong "Tam quốc diễn nghĩa", nước Thục đã phái sứ giả đến gặp Tư Mã Ý. Thế nhưng Tư Mã Ý lại có động thái vô cùng bất thường. Theo đó, ông không đề cập đến tình hình cuộc chiến, mà chỉ truy hỏi hiện trạng sức khỏe của Gia Cát Lượng. Sau đó, sứ giả không hề có chút phòng bị mà đã kể hết toàn bộ biểu hiện bệnh tình của vị thừa tướng.
Gia Cát Lượng mắc bệnh nặng, ăn uống không được bao nhiêu, buổi tối lại mất ngủ, có lúc còn ho ra máu. Từ đó, căn bệnh đã ngấm trong xương tủy, tính mạng khó bảo toàn. Tư Mã Ý chỉ đợi có vậy mà tăng thêm sự tự tin về chiến thắng của mình.
Chuyên gia đã căn cứ vài số ít tư liệu để lại và tình hình chiến loạn thời bấy giờ để đưa ra 3 suy đoán về nguyên nhân cái chết của Gia Cát Lượng.
Một, Gia Cát Lượng không may bị nhiễm trùng máu. Tên căn bệnh cũng đủ khiến người người phải rùng mình. Nhiễm trùng máu được liệt vào tình trạng bệnh nguy cấp vì thường dẫn đến suy tạng nhanh chóng, tỷ lệ tử vong cao. Thời bấy giờ, chứng bệnh này thường xuất hiện ở phía nam. Gia Cát Lượng nhiều lần dẫn binh tiến về hướng nam đánh trận nên trường hợp ông mắc bệnh nhiễm trùng máu rất có khả năng.
Hai, Gia Cát Lượng bị bệnh ung thư dạ dày. Suy đoán này căn cứ vào chế độ ăn uống bất thường của ông. Ung thư dạ dày khiến bệnh nhân thường xuyên ho ra máu, tình trạng này khớp với biểu hiện của Gia Cát Lượng lúc lâm bệnh nặng. Thời bấy giờ, y thuật chưa tân tiến, mắc phải bệnh hiểm nghèo thì cũng đồng nghĩa với việc chờ chết.
Ba, Gia Cát Lượng bị bệnh ung thư gan. Suy đoán này được xem là hợp tình hợp lý nhất. Gia Cát Lượng chấp quản đại sự của một nước nên thường xuyên lao lực đến quên ăn quên ngủ, hao tổn trí óc, thế nhưng sức người lại có hạn. Thói quen sống của ông cực kỳ không lành mạnh dẫn đến hệ miễn dịch suy yếu, cuối cùng chết trong cảnh đau đớn vì bệnh tật.

Hai cao thủ Tam Quốc "ẩn tàng" một văn một võ, cả đời không xuất sơn

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Cuộc đấu tranh giữa ba nước Ngụy - Thục - Ngô vào thời kỳ Tam Quốc có thể nói theo một cách khác là cuộc so tài giữa các mưu thần võ tướng.

Tào Ngụy dựa vào mưa trí của Tuân Úc, Quách Gia, Cổ Hử cùng với hàng ngàn võ tướng như Hạ Hầu Uyên, Trương Liêu, Trương Hợp để đối đầu với Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân của Thục Hán, đồng thời còn có tài trí của Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn chỉ huy những mãnh tướng Lăng Thống, Cam Ninh, Chu Hằng của Đông Ngô.

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Hai cao thu Tam Quoc
 Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy.

Người đầu tiên đó là Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy, một kỳ tài thời Đông Hán Hoàn Đế. Ông từng rất muốn báo ơn quốc gia, nhưng nhìn thấy Hoàng đế ngày đêm hoan lạc tửu sắc, đại thần tranh quyền đoạt lợi, vì vậy Thủy Kính tiên sinh mới từ bỏ ý niệm làm quan, trở về Kinh Châu mở một lớp học. . Mục đích không chỉ là truyền thụ tư tưởng trị quốc và tài năng của bản thân, mà còn để đào tạo một thế hệ kiệt xuất mới có thể giải cứu triều đại Đông Hán.

Ngoài Ngọa Long Gia Cát Lượng và Phượng Sồ Bàng Thống, lứa học trò kiệt xuất của ông còn rất nhiều cái tên nổi tiếng khác như Từ Thứ, Thôi Châu Bình hay Thạch Quảng Nguyên.

Hai cao thu Tam Quoc
Phượng Sồ Bàng Thống và Ngọa Long Gia Cát Lượng là hai đệ tử xuất sắc nhất của Thủy Kinh tiên sinh. 

Từ Thứ chính là người khiến Lưu Bị hiểu được tầm quan trọng của một quân sư trong quân đội, là người giúp Lưu Bị có những chiến thắng và giành được địa bàn đầu tiên trong sự nghiệp. Từ Thứ sau vì bất đắc dĩ mà đầu quân cho Tào Tháo, tuy không giúp Tào đánh Lưu Bị nhưng là người đào tạo ra thiếu niên thiên tài Tào Sung. Sau khi Tào Sung chết yểu, Từ Thứ trở thành một thành viên của quân Tây Lương, chính vì sự tồn tài của Từ Thứ mà tộc Hung Nô và tộc Khương không dám vượt biên.

Cùng với Từ Thứ, Thôi Châu Bình và Thạch Quảng Nguyên là những người bạn thân từ nhỏ của Gia Cát Lượng. Thôi Châu Bình không tham gia vào thế sự nhưng không vì thế mà tài năng của ông bị đánh giá thấp. Ông thích ngao du tự tại, kết giao và cùng đàm đạo với các anh hùng trong thiên hạ. Khi Lưu Bị "Tam cố thảo lư" đã có dịp thỉnh giáo Thôi Châu Bính, ông cũng đã có ý thăm dò Lưu Bị nhưng chỉ tiếc Lưu Bị lúc đó một lòng hướng về Gia Cát Lượng.

Còn Thạch Quảng Nguyên thì sớm đã ra sức giúp Tào Tháo, tài năng của ông sớm được trọng dụng và thăng tiến đến chức Thứ sử Thanh Châu. Thiết nghĩ có thể đào tạo ra một thế hệ toàn những văn thần mưu sĩ quái kiệt như vậy, đủ để chứng minh sự uyên bác của Thủy Kính tiên sinh như thế nào. Chỉ tiếc ông một đời an phận giảng đạo, sau cũng ung dung nhắm mắt tại chính giảng đường của mình.

Nhân vật còn lại là Thương pháp đại sư Đổng Uyên, từ trẻ ông đã bắt đầu ngao du giang hồ hành hiệp trượng nghĩa. Có lần Đổng Uyên đặt chân đến Tịnh Châu, nhìn thấy quân Hung Nô cướp bóc dân Hán, ông đơn thương độc mã xông vào giữa đại quân Hung Nô, giết thủ lĩnh của chúng.

Những tướng lĩnh khác thấy vậy liền xông lên tấn công Đổng Uyên nhưng bị ông vung thương lần lượt đoạt mạng từng tên một, khiến quân Hung Nô hoảng sợ tháo chạy. Cũng sau sự kiện này, Đổng Uyên nghĩ rằng sức lực con người có hạn, cần thêm nhiều người như ông mới đủ để bảo vệ bá tánh. Ông quyết đi tìm những đứa trẻ có tư chất thiên phú và truyền dạy cho chúng tinh hoa võ nghệ cả đời của ông.

Đại đệ tử của ông là Bắc Địa thương vương Trương Tú. Sau khi xuất sư, Trương Tú trở về quê nhà Tây Lương gia nhập quân đội báo quốc. Võ nghệ cao cường lại gan dạ trung nghĩa, Trương Tú được tướng lĩnh cao cấp quân Tây Lương là Trương Tế nhận làm nghĩa tử. Sau khi Trương Tế chết, Trương Tú kế thừa quân đội, từng chém chết con trưởng Tào Ngang và ái tướng Điển Vị của Tào Tháo tại Uyển Thành, Tào Tháo suýt chút nữa cũng bỏ mạng tại đây.

Đệ tử thứ hai của Đổng Uyên là Trương Nhậm, được coi là đệ nhất đại tướng Xuyên Thục, sau khi xuất sư thì được Lưu Chương chiêu mộ, chỉ trong một thời gian ngắn đã đạt được vị trí cấp cao trong quân đội. Khi Lưu Bị công đánh Thành Đô đã gặp không ít khó khăn với Trương Nhậm, đến Phượng Sồ Bàng Thống cũng mất mạng tại trận chiến này. Sau khi Lưu Chương đầu hàng, Trương Nhậm cũng tự vẫn để làm chọn chữ "nghĩa".

Đệ tử thứ 3 của Đổng Uyên là một nhân vật rất quen thuộc, Thường Sơn Triệu Tử Long hay còn gọi là Triệu Vân. Sự tích về Triệu Vân có lẽ không cần phải giới thiệu vì quá nổi tiếng. Sau khi Triệu Vân xuất sư không lâu thì Đổng Uyên cũng qua đời ở trên núi.

Tam quốc diễn nghĩa: Không phải Chu Du, đây mới là trợ thủ số một của Tôn Quyền

Trương Chiêu là nhân vật đóng vai trò khá quan trọng dưới thời Tôn Sách, được Tôn Sách và Ngô phu nhân ủy thác giúp Tôn Quyền.

Tôn Sách (174- 200), tự Bá Phù, là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt nền móng quan trọng trong việc hình thành nên Đông Ngô.
Tôn Sách bị ám sát vào năm 200 trong một cuộc đi săn. Lúc sắp ra đi, ông nhận thức được rằng con trai mình vẫn còn quá nhỏ để kế vị, vì thế ông gọi Trương Chiêu đến dặn dò, trao lại ấn tín, giao lại quyền hành cho người em mới 18 tuổi là Tôn Quyền.

Nhân vật này mưu thắng Tư Mã Ý, nhưng bị bóp méo thê thảm

Nhân vật Tam quốc mưu thắng Tư Mã Ý, võ công áp đảo Triệu Vân nhưng bị "Tam quốc diễn nghĩa" bóp méo thê thảm. Ai là người đang được nhắc đến ở đây?

Thậm chí những anh tài thời kỳ ấy không hề ít hơn bất kỳ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Hoa, mưu thần võ tướng nhiều không đếm xuể. Trong số đó, có rất nhiều nhân vật đến nay còn được người dân Trung Quốc tôn kính lập ban thờ.

Trong số ấy, Quan Vũ được phong thần, trên có Đế vương, dưới có dân thường, dù là bên nào cũng đều tôn sùng Quan Vũ. Có thể nói hàng ngàn năm qua ông đã hưởng hết hương khói dân gian. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới