Thành Đông giờ ở đâu?

(Kiến Thức) - Theo ông Ý, trong suốt thời gian tồn tại, thành Đông đã từng một lần ngăn chặn quân tàu ô từ Quảng Yên lên, bị chúng bao vây mấy tháng trời. 

Nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long, thành Hải Dương (thành Đông) là một tòa thành đồ sộ, có vị trí chiến lược góp phần bảo vệ kinh thành khi ngăn quân giặc từ biển vào. Trải qua những thăng trầm lịch sử, tòa thành xưa tưởng như chỉ còn trong hoài niệm.

Đi tìm dấu tích thành Đông

Về TP Hải Dương, tôi làm một phép thử nhỏ khi đặt câu hỏi "thành Đông giờ ở đâu?" cho những người tôi gặp. Thế nhưng, từ anh xe ôm trên đường Lê Thanh Nghị ngoài 30 tuổi, bà chủ cửa hàng tạp hóa trên đường Trần Hưng Đạo ngoài 50 tuổi đến cô bé sinh viên năm thứ hai trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương - dù đều nhận "quê gốc ở thành phố" cũng lắc đầu ái ngại. Họ bảo có nghe đến tên tòa thành này, láng máng rằng phố Hào Thành "hình như có liên quan" mà không hề biết chính xác khu thành ấy là gì, ở đâu bây giờ.
Tôi đem câu chuyện này gặp ông Lưu Đức Ý, thành viên Hội Khoa học lịch sử tỉnh, chủ biên kiêm đồng chủ biên nhiều cuốn sách đã xuất bản về đất và người Hải Dương. Ông Ý cười xòa: "Lâu lắm rồi. Người ta không biết cũng phải". Tôi thoáng chưng hửng vì biết rằng dấu tích tòa thành ấy đã chẳng còn nguyên vẹn, lo rồi cũng chỉ như "bóng chim tăm cá". Như đọc được ý nghĩ ấy của tôi, ông Ý trấn an: "Người ta có thể thay đổi lịch sử, phá hủy dấu tích của nó nhưng chẳng bao giờ làm nó biến mất vĩnh viễn được, chí ít là trong tiềm thức". Tôi đi tìm dấu tích thành Đông như thế.
Cửa Đông xưa nay đã là đường lớn, tấp nập xe cộ.
Cửa Đông xưa nay đã là đường lớn, tấp nập xe cộ. 
Từng cầm chân giặc tàu ô
Ông Ý từng là giáo viên dạy Toán. Thế nhưng, lịch sử lại có sức hấp dẫn ông mãnh liệt, để rồi "càng tìm hiểu lại càng say mê, càng say thì càng phải tìm hiểu cho đến khi nào mắt không thể nhìn được, tay không thể ghi chép hay lần giở những trang giấy mới thôi", ông bảo. Vì thế, khi về hưu, ông có nhiều thời gian để chuyên tâm vào tìm hiểu lịch sử. Sự hiểu biết về mảnh đất mình sinh sống và sẽ gắn bó đến hơi thở cuối cùng này khiến người thầy giáo già ấy càng thêm tự hào. 
Ông kể về lịch sử thành phố, về đất, về người Hải Dương với tất cả sự háo hức, như thể ông đang nói về chính ngôi nhà mình do bàn tay mình thiết kế, bài trí, về những người thân cận của mình. Ấy thế mà, khi nhắc đến thành Đông, giọng ông trầm xuống, như nuối tiếc, như xót xa.
Lần giở những trang tư liệu, ông Ý cho hay, khi vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802, thành Hải Dương vẫn đóng ở Mao Điền, cách TP Hải Dương bây giờ chừng 15km. Trấn thủ là ông Trần Công Hiến. Tháng 8 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ hai, đi kinh lý qua Hải Dương, trấn phên dậu của Thăng Long đã nhận ra sự bất hợp lý của việc đặt trấn sở Hải Dương tại Mao Điền. 
Năm Giáp Tý (1804), vua ra Bắc Hà lần thứ ba để tiếp sứ nhà Thanh ở Thăng Long đã quyết định di trấn sở Hải Dương về phía đông 15km trên ngã ba sông Kẻ Sặt và Thái Bình, thuộc địa phận Bình Lao Trang, Hàn Giang, Hàn Thượng. Vì thế, trấn Hải Dương còn được gọi là trấn Hàn. Chính trấn thủ Trần Công Hiến cùng bộ công nhận trách nhiệm làm thành theo kiểu Vô-băng (Pháp). Lúc đầu gọi là Hải Dương trấn thành (thành của trấn Hải Dương). Năm 1831, vua Minh Mạng cải cách hành chính trong cả nước, trấn Hải Dương đổi thành tỉnh Hải Dương, từ đó có Hải Dương tỉnh thành. Vì ở phía Đông kinh thành Thăng Long nên thành còn được gọi là thành Đông. 
Con kênh nhỏ chạy dọc theo phố Hào Thành được cho là hào bao quanh thành Đông xưa.
 Con kênh nhỏ chạy dọc theo phố Hào Thành được cho là hào bao quanh thành Đông xưa.
Thành Đông ban đầu được đắp bằng đất, có hình lục giác, mỗi góc có trạm gác; chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, mở 4 cửa (Đông, Tây, Nam, Bắc). Cửa chính hướng Nam, chính giữa là kỳ đài. Từ kỳ đài đi lên là hành cung, nơi vua ra kinh lý nghỉ ngơi. Dinh của 4 quan tổng đốc gồm Bố chánh, Án sát, Lãnh binh nằm xung quanh cột cờ và hành cung. Phía trong là một loạt các kho chứa tiền, lương thực, vũ khí. Phía cửa Bắc là nơi xét xử tội phạm. Thành Đông ban đầu không có dân, chỉ có quan lại và quân lính. Sau này, vợ con quan quân chuyển dần đến ở phía cửa Đông của thành, ven sông Kẻ Sặt, hình thành các giáp rồi lập nên Đông Kiều phố, buôn bán sầm uất. Cũng từ đây, TP Hải Dương phát triển dần.
Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, các vua triều Nguyễn củng cố thành bằng cách gia cố thêm bốn cửa gọi là thành ngoại. Đầu năm 1873, thành bị thực dân Pháp chiếm giữ nhưng cuối năm đó được chúng trả lại cho quan quân. Năm 1883, thực dân Pháp đi đường thủy theo sông Kẻ Sặt tiến vào, quân ta phải bỏ chạy lên Mao Điền, thành rơi vào tay thực dân Pháp.
Hiện, ông Ý vẫn giữ được tấm bản đồ thiết kế khu thành của thực dân Pháp giai đoạn 1923 - 1927. Theo đó, trong khoảng thời gian này, thực dân Pháp sẽ lấy cát sông Kẻ Sặt lấp khu đất trũng quanh thành để xây dựng cơ quan và bán cho dân. Chúng chia ra các khu như khu giáo dục (chỗ trường Tiểu học Võ Thị Sáu bây giờ) và khu y tế thuộc xã Hàn Giang, tuy nhiên do không có kinh phí nên khu này được chuyển sang làm sân vận động. Như vậy, đến khoảng đầu thế kỷ XX, thành Đông gần như bị "xóa sổ" hoàn toàn.
Cũnh theo ông Ý, trong suốt thời gian tồn tại, thành Đông đã từng một lần ngăn chặn quân tàu ô từ Quảng Yên lên, bị chúng bao vây mấy tháng trời. Nhưng cuối cùng, chính sự quả cảm của quan quân trong thành đã cầm chân được quân giặc, ngăn không cho chúng tiến sâu vào trong và buộc chúng phải rút lui.
Theo ông Lưu Đức Ý, thành Đông xưa có hình lục giác với 4 cửa ra vào.
Theo ông Lưu Đức Ý, thành Đông xưa có hình lục giác với 4 cửa ra vào. 
Chuyện không của riêng thành Đông
Đưa tôi đi tìm lại dấu tích thành Đông, ông Ý thật thà: "Dấu tích của tường thành xưa hầu như không còn nữa. Chỉ còn lại khu vực từng là hào bao quanh thành trước đây cùng những chiếc cầu để vào thành".
Theo đó, cửa Đông trước đây giờ nằm giữa Bưu điện tỉnh và Ngân hàng TMCP Công thương, xe cộ tấp nập. Cửa Nam là khu vực công ty chế tạo bơm Ebara. Hai cửa này bị thực dân Pháp phá hủy từ cuối thế kỷ XIX. Cửa Tây nằm trên đường Tuệ Tĩnh, khu vực Viện Quân y 7. Duy chỉ có khu cửa Bắc trên đường Chi Lăng nay vẫn còn dấu tích cây cầu vào thành bắc qua con sông nhỏ, trước đây là hào bao quanh thành, song vì quá trình đô thị hóa nên không còn giữ được nguyên vẹn. Hiện nay, con kênh chạy dọc theo phố Hào Thành cũng được cho là hào bao quanh thành ngày xưa. "Thật khó để người ta nhận ra dấu tích của thành cổ bởi những gì còn sót lại đều chỉ gợi lên vẻ mịt mùng, phải đọc tài liệu, xác định được vị trí tòa thành xưa thì mới hiểu được", ông Ý thừa nhận.
Hỏi ông có tiếc không khi thành Đông từng một thời là biểu trưng của Hải Dương nay đã hầu như không còn, ông Ý lắc đầu, thở dài: "Buồn cũng chẳng làm gì được nữa rồi. Thời gian, bom đạn chiến tranh, con người đã phá đi tòa thành cổ". Đoạn, ông nói như an ủi chính mình: "Nhưng thôi, chuyện đâu phải của riêng thành Đông nữa, nhiều di tích cũng chung số phận mà".
Ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Hải Dương tỏ ra tiếc nuối khi nhắc đến thành Đông từng là niềm tự hào của người Hải Dương, là biểu trưng của tỉnh. Ông bảo, bây giờ nói đến chuyện khôi phục thành cổ là rất khó. Chỉ mong sao những dấu tích còn lại của thành được bảo tồn để con cháu hiểu biết được phần nào lịch sử quê hương.

Độc đáo thành cổ đầu tiên xây hình lục giác ở VN

Thành cổ Bắc Ninh, công trình kiến trúc nghệ thuật quân sự tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng từ năm 1805 thời Vua Gia Long, triều Nguyễn, trên địa phận các làng Ðỗ Xá, huyện Võ Giàng, Hòa Ðình (Tiên Du) và làng Yên Xá, huyện Yên Phong (nay thuộc phường Vệ An, TP.Bắc Ninh). Trấn lỵ của trấn Bắc Ninh trước kia ở xã Đáp Cầu thuộc huyện Võ Giàng. Tháng 2 năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long cho dời trấn lỵ cũ đến xã Lỗi Đình thuộc huyện Tiên Du. Ảnh: Cột cờ Bắc Ninh và kho vũ khí.
 Thành cổ Bắc Ninh, công trình kiến trúc nghệ thuật quân sự tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng từ năm 1805 thời Vua Gia Long, triều Nguyễn, trên địa phận các làng Ðỗ Xá, huyện Võ Giàng, Hòa Ðình (Tiên Du) và làng Yên Xá, huyện Yên Phong (nay thuộc phường Vệ An, TP.Bắc Ninh). Trấn lỵ của trấn Bắc Ninh trước kia ở xã Đáp Cầu thuộc huyện Võ Giàng. Tháng 2 năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long cho dời trấn lỵ cũ đến xã Lỗi Đình thuộc huyện Tiên Du. Ảnh: Cột cờ Bắc Ninh và kho vũ khí. 
Lúc đầu, thành Bắc Ninh chỉ được đắp bằng đất, cho tới năm Minh Mạng thứ 6 (1825), thành được xây lại bằng đá ong và cuối cùng xây lại bằng gạch vào thời Thiệu Trị (1841). Thành xây tại chỗ giáp giới của 3 xã thuộc 3 huyện là Đỗ Xá (huyện Võ Giàng), Khúc Toại (huyện Yên Phong) và Lỗi Đình (huyện Tiên Du). Ảnh: Thành Bắc Ninh trên bưu ảnh Pháp.
 Lúc đầu, thành Bắc Ninh chỉ được đắp bằng đất, cho tới năm Minh Mạng thứ 6 (1825), thành được xây lại bằng đá ong và cuối cùng xây lại bằng gạch vào thời Thiệu Trị (1841). Thành xây tại chỗ giáp giới của 3 xã thuộc 3 huyện là Đỗ Xá (huyện Võ Giàng), Khúc Toại (huyện Yên Phong) và Lỗi Đình (huyện Tiên Du). Ảnh: Thành Bắc Ninh trên bưu ảnh Pháp. 
Trước khi Pháp chiếm, tỉnh lỵ của Bắc Ninh mới chỉ là một dãy phố trải dọc theo con đường trạm đá khoảng 1500 m, chủ yếu là hơn 1500 người Hoa trú ngụ, còn quan lại và chính quyền đóng trong thành. Năm 1892, tám năm sau khi Pháp chiếm Bắc Ninh, nhà thờ lớn của Tòa giám mục dòng Dominicain được xây dựng ở Bắc Ninh, kiến trúc đẹp và hoành tráng vẫn còn giữ đến ngày nay. Ảnh: Cổng thành Bắc Ninh ngày nay.
 Trước khi Pháp chiếm, tỉnh lỵ của Bắc Ninh mới chỉ là một dãy phố trải dọc theo con đường trạm đá khoảng 1500 m, chủ yếu là hơn 1500 người Hoa trú ngụ, còn quan lại và chính quyền đóng trong thành. Năm 1892, tám năm sau khi Pháp chiếm Bắc Ninh, nhà thờ lớn của Tòa giám mục dòng Dominicain được xây dựng ở Bắc Ninh, kiến trúc đẹp và hoành tráng vẫn còn giữ đến ngày nay. Ảnh: Cổng thành Bắc Ninh ngày nay. 
Thành Bắc Ninh được xây dựng theo đồ án “hình sáu cạnh”. Theo hệ đo lường cổ Việt Nam, thì thành chu vi 532 trượng 3 thước 2 tấc. Tường gạch cao 9 thước. Xung quanh có hào rộng 4 trượng sâu 5 thước. Thành có 4 cửa mỗi cửa đều có cầu đi qua hào. Ở sáu góc thành đều có pháo đài nhô ra ngoài, theo kiểu dáng điển hình Vauban. Đây rõ ràng là một thành lớn sau thành Hà Nội, chứng tỏ sự quan tâm nhiều của triều Nguyễn đối với tầm quan trọng mọi mặt của đất Bắc Ninh. Ảnh: Thành cổ Bắc Ninh.
 Thành Bắc Ninh được xây dựng theo đồ án “hình sáu cạnh”. Theo hệ đo lường cổ Việt Nam, thì thành chu vi 532 trượng 3 thước 2 tấc. Tường gạch cao 9 thước. Xung quanh có hào rộng 4 trượng sâu 5 thước. Thành có 4 cửa mỗi cửa đều có cầu đi qua hào. Ở sáu góc thành đều có pháo đài nhô ra ngoài, theo kiểu dáng điển hình Vauban. Đây rõ ràng là một thành lớn sau thành Hà Nội, chứng tỏ sự quan tâm nhiều của triều Nguyễn đối với tầm quan trọng mọi mặt của đất Bắc Ninh. Ảnh: Thành cổ Bắc Ninh. 
Theo GS, TS Ðỗ Văn Ninh, tác giả cuốn sách "Thành cổ Việt Nam", Thành Bắc Ninh là thành cổ đầu tiên của Việt Nam được xây dựng theo đồ án hình lục giác. Về kiến trúc, Thành Bắc Ninh là một trong bốn tòa thành đẹp nhất vùng Bắc Kỳ thời bấy giờ. Thành có diện tích 545.000 m², tường cao 9 thước đắp bằng đất đá, sau thành bằng gạch đá, chu vi dài hơn 532 trượng, chung quanh có hào nước sâu bao bọc.
 Theo GS, TS Ðỗ Văn Ninh, tác giả cuốn sách "Thành cổ Việt Nam", Thành Bắc Ninh là thành cổ đầu tiên của Việt Nam được xây dựng theo đồ án hình lục giác. Về kiến trúc, Thành Bắc Ninh là một trong bốn tòa thành đẹp nhất vùng Bắc Kỳ thời bấy giờ. Thành có diện tích 545.000 m², tường cao 9 thước đắp bằng đất đá, sau thành bằng gạch đá, chu vi dài hơn 532 trượng, chung quanh có hào nước sâu bao bọc.
Trong thành có sắp xếp các bộ phận gồm Doanh trấn thủ, Ðài bác vọng, kho thuốc súng, nhà Công đồng, Thời nhà Nguyễn, Thành Bắc Ninh là trung tâm bộ máy cai quản hành chính hai tỉnh Bắc Ninh - Thái Nguyên. Thời thuộc Pháp, xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của tòa thành này, ngày 16/5/1925, toàn quyền Ðông Dương đã ký quyết định xếp hạng di tích Thành Bắc Ninh là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu.
 Trong thành có sắp xếp các bộ phận gồm Doanh trấn thủ, Ðài bác vọng, kho thuốc súng, nhà Công đồng, Thời nhà Nguyễn, Thành Bắc Ninh là trung tâm bộ máy cai quản hành chính hai tỉnh Bắc Ninh - Thái Nguyên. Thời thuộc Pháp, xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của tòa thành này, ngày 16/5/1925, toàn quyền Ðông Dương đã ký quyết định xếp hạng di tích Thành Bắc Ninh là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu.

Trải qua nhiều năm, đặc biệt là qua một số trận đánh, tòa thành đã bị hủy hoại nhiều. Nơi đây là chiến trường của trận đánh tới 27.000 quân Pháp với quân Thanh và quân Việt năm 1884. Ngày 16 tháng 12 năm 1883, quân Pháp đánh chiếm được thành Sơn Tây. Hai ngày sau (18 tháng 12) ở Paris, nghị viện Pháp đã phấn khởi gửi thêm 7.000 quân, cấp 17 triệu quan và còn cho vay thêm 3 triệu nữa, để hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ ở Việt Nam. Giữa năm 1882 quân đội Mãn Thanh cũng tràn đến Bắc Ninh để tranh giành ảnh hưởng và lãnh thổ. Ảnh: Lính Pháp đang ngắm con voi của Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đán.
 Trải qua nhiều năm, đặc biệt là qua một số trận đánh, tòa thành đã bị hủy hoại nhiều. Nơi đây là chiến trường của trận đánh tới 27.000 quân Pháp với quân Thanh và quân Việt năm 1884. Ngày 16 tháng 12 năm 1883, quân Pháp đánh chiếm được thành Sơn Tây. Hai ngày sau (18 tháng 12) ở Paris, nghị viện Pháp đã phấn khởi gửi thêm 7.000 quân, cấp 17 triệu quan và còn cho vay thêm 3 triệu nữa, để hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ ở Việt Nam. Giữa năm 1882 quân đội Mãn Thanh cũng tràn đến Bắc Ninh để tranh giành ảnh hưởng và lãnh thổ. Ảnh: Lính Pháp đang ngắm con voi của Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đán. 
Giữa Pháp và Trung Hoa xảy ra việc điều đình, nên mặc dù vẫn gửi viện binh, nhưng chính phủ Pháp đã chỉ thị cho Tổng tư lệnh ở Bắc Kỳ là chỉ được đánh chiếm thêm Bắc Ninh và Hưng Hóa mà thôi, vì nếu đánh lên nữa sẽ đụng độ với quân Thanh, không có lợi cho việc nghị hòa trên.
 Giữa Pháp và Trung Hoa xảy ra việc điều đình, nên mặc dù vẫn gửi viện binh, nhưng chính phủ Pháp đã chỉ thị cho Tổng tư lệnh ở Bắc Kỳ là chỉ được đánh chiếm thêm Bắc Ninh và Hưng Hóa mà thôi, vì nếu đánh lên nữa sẽ đụng độ với quân Thanh, không có lợi cho việc nghị hòa trên. 
Thành Bắc Ninh là một căn cứ tập trung khá đông quân đội Việt và quân đội Thanh. Nhưng trước sự thất bại vừa rồi của thành Sơn Tây, Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản đã nao núng, nên ông đã cho rút quân ra khỏi thành về đóng ở huyện Tiên Du. Cho nên lúc bấy giờ ở ngoại vi thành chỉ có tướng nhà Thanh là Triệu Ốc trấn giữ, ở trong thành chỉ có Bố chính Nguyễn Tu, Án sát Nguyễn Ngọc Trân cùng 10.000 quân Thanh do Thống lĩnh Hoàng Quế Lan chỉ huy. Ảnh: Súng đạn và vũ khí quân Cờ đen bỏ lại, bị Pháp thu giữ.
Thành Bắc Ninh là một căn cứ tập trung khá đông quân đội Việt và quân đội Thanh. Nhưng trước sự thất bại vừa rồi của thành Sơn Tây, Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản đã nao núng, nên ông đã cho rút quân ra khỏi thành về đóng ở huyện Tiên Du. Cho nên lúc bấy giờ ở ngoại vi thành chỉ có tướng nhà Thanh là Triệu Ốc trấn giữ, ở trong thành chỉ có Bố chính Nguyễn Tu, Án sát Nguyễn Ngọc Trân cùng 10.000 quân Thanh do Thống lĩnh Hoàng Quế Lan chỉ huy. Ảnh: Súng đạn và vũ khí quân Cờ đen bỏ lại, bị Pháp thu giữ. 
Còn bên quân Pháp có cả thảy 16.300 quân, 55 khẩu đại bác và 6 tàu chiến. Đặc biệt, là lần này có thêm một công cụ mới để điều tra quan sát trận địa đó là chiếc khí cầu. Ảnh: Một đoạn tường thành Bắc Ninh bị sứt mẻ sau đợt tấn công của quân Pháp.
Còn bên quân Pháp có cả thảy 16.300 quân, 55 khẩu đại bác và 6 tàu chiến. Đặc biệt, là lần này có thêm một công cụ mới để điều tra quan sát trận địa đó là chiếc khí cầu. Ảnh: Một đoạn tường thành Bắc Ninh bị sứt mẻ sau đợt tấn công của quân Pháp.
Cuộc chiến đã diễn ra từ ngày 7 - 12/3/1884. Kết thúc trận đánh chiếm, theo Thomazi (1934) thì con số thiệt hại của đôi bên như sau: Bên quân Thanh: 100 chết và 400 bị thương. Bên quân Pháp: 9 chết và 39 bị thương. Ảnh: Pháo đài Bắc Ninh trên bản đồ trực tuyến, hình lục giác còn rất rõ ràng.
Cuộc chiến đã diễn ra từ ngày 7 - 12/3/1884. Kết thúc trận đánh chiếm, theo Thomazi (1934) thì con số thiệt hại của đôi bên như sau: Bên quân Thanh: 100 chết và 400 bị thương. Bên quân Pháp: 9 chết và 39 bị thương. Ảnh: Pháo đài Bắc Ninh trên bản đồ trực tuyến, hình lục giác còn rất rõ ràng. 
Nhưng theo Trần Trọng Kim, thì quân Pháp có 8 người chết và 40 bị thương. Phạm Văn Sơn, trong Việt sử tân biên, ghi tương tự, nhưng còn cho biết thêm là trên đường tháo chạy về Thái Nguyên (vì Pháp đã cho chặn đường về Lạng Sơn), quân Thanh đã bỏ lại nhiều súng ống, đạn dược và hàng trăm khẩu đại bác. Ảnh: Sơ đồ thành Bắc Ninh vẽ năm 1909.
 Nhưng theo Trần Trọng Kim, thì quân Pháp có 8 người chết và 40 bị thương. Phạm Văn Sơn, trong Việt sử tân biên, ghi tương tự, nhưng còn cho biết thêm là trên đường tháo chạy về Thái Nguyên (vì Pháp đã cho chặn đường về Lạng Sơn), quân Thanh đã bỏ lại nhiều súng ống, đạn dược và hàng trăm khẩu đại bác. Ảnh: Sơ đồ thành Bắc Ninh vẽ năm 1909. 
Cho đến nay ngôi Thành này vẫn chưa hề được tu bổ, tôn tạo, ngược lại còn bị chiến tranh, mưa tuôn nắng dội, sự xâm lấn của con người đã làm cho di tích bị xuống cấp nghiêm trọng. Dấu tích còn lại của Thành cổ Bắc Ninh là ba cổng thành, một phần bờ thành và dãy hào sâu, hai khẩu súng thần công, trong đó nổi bật là cổng tiền với đài gác vọng, cột cờ cao gần 20 m. Ảnh: Cổng Bắc thành sau đợt tấn công của quân Pháp.
Cho đến nay ngôi Thành này vẫn chưa hề được tu bổ, tôn tạo, ngược lại còn bị chiến tranh, mưa tuôn nắng dội, sự xâm lấn của con người đã làm cho di tích bị xuống cấp nghiêm trọng. Dấu tích còn lại của Thành cổ Bắc Ninh là ba cổng thành, một phần bờ thành và dãy hào sâu, hai khẩu súng thần công, trong đó nổi bật là cổng tiền với đài gác vọng, cột cờ cao gần 20 m. Ảnh: Cổng Bắc thành sau đợt tấn công của quân Pháp.
Cổng chính thành Bắc Ninh trên bưu ảnh Pháp.
 Cổng chính thành Bắc Ninh trên bưu ảnh Pháp.
 

Một đoạn công sự do quân Cờ đen đắp năm 1884 để chống lại quân Pháp.
 Một đoạn công sự do quân Cờ đen đắp năm 1884 để chống lại quân Pháp.
Hào nước phía bên ngoài pháo đài.
 Hào nước phía bên ngoài pháo đài.















Khám phá cổ thành độc nhất VN thời Hai Bà Trưng

(Kiến Thức) - Ít ai biết, ẩn sau từng mô đất, tượng đá, suối nước ở đền thờ Hai Bà Trưng là hệ thống thành trì độc đáo, chứa đựng nghệ thuật quân sự cổ của hai vị liệt nữ anh hùng.

Bí mật thành ống
Đền thờ Hai Bà Trưng tọa lạc trên một mô đất hình trán voi cạnh sông Hồng, đoạn chảy qua huyện Mê Linh, Hà Nội, đến nay, nhiều tư liệu lịch sử ghi lại rằng: “Hai Bà Trưng được sinh ra ở vùng đất có hình con voi trắng đang uống nước hồ, cho nên khí phách mạnh mẽ, ngang tàng, khi dấy binh khởi nghĩa thì chỉ cần một lời kêu gọi trăm người nghe theo, vì lấy được lòng dân đên sự nghiệp đánh giặc cứu nước sớm toại thành”.

Đọc nhiều nhất

10 bức ảnh lịch sử khiến nhân loại "rụng tim"

10 bức ảnh lịch sử khiến nhân loại "rụng tim"

(Kiến Thức) - Những năm qua, các nhiếp ảnh gia chụp được nhiều bức ảnh lịch sử có "sức nặng" lay động trái tim của người dân trên khắp thế giới. Mỗi bức ảnh là câu chuyện riêng khiến người xem có những cảm xúc khó quên. 
Bật nắp quan tài nặng 90 tấn, phát hiện điều khó tin

Bật nắp quan tài nặng 90 tấn, phát hiện điều khó tin

(Kiến Thức) - Trong cuộc khai quật tại nghĩa trang cổ đại Saqqara, Ai Cập, các chuyên gia phát hiện một cỗ quan tài nặng 90 tấn. Sau khi dùng thuốc nổ mở nắp quan tài, các chuyên gia kinh ngạc phát hiện một xác ướp bò đực thay vì thi hài Pharaoh. 
Tên tội phạm mang bộ óc thiên tài khiến Mỹ khó bắt nhất

Tên tội phạm mang bộ óc thiên tài khiến Mỹ khó bắt nhất

(Kiến Thức) - Ted Kaczynski là tên tội phạm mang bộ óc thiên tài khét tiếng nước Mỹ với chỉ số IQ lên đến 167. Kaczynski trở thành đối tượng trong cuộc điều tra dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI). 

Tin mới

Hyundai Elantra 2023 'lộ hàng' 4 phiên bản

Hyundai Elantra 2023 'lộ hàng' 4 phiên bản

Hyundai Elantra 2023 mới sẽ vẫn tiếp tục bán ra với 4 phiên bản tại thị trường Việt Nam bao gồm 2 phiên bản động cơ xăng 1.6L, 1 phiên bản động cơ xăng 2.0L và 1 phiên bản động cơ xăng tăng áp 1.6T-GDi.