Tại sao triều Nguyễn từ Minh Mạng đến Khải Định không lập Hoàng hậu?

Từ thời vua Minh Mạng trở đi, các vua kế vị sau đều không lập vợ mình ngôi Hoàng hậu khi tại vị, trừ trường hợp bà Hoàng hậu Nam Phương thời vua Bảo Đại. Tại sao lại như vậy?

Có thuyết cho rằng, ngay thời vua Gia Long, vị vua khai sáng triều Nguyễn vì không muốn chia sẻ quyền lực cho ai, hoặc lo sợ người ngoài lấn át quyền lực nên đã đặt ra lệ “Tứ bất” là không lập Hoàng hậu, không lập Thái tử, không phong Tể tướng, không lấy Trạng nguyên (có sách chép là không phong vương). Thế nhưng, đến nay người ta vẫn chưa tìm ra văn bản nào quy định về điều này. Mặt khác, trong thực tế, vua Gia Long đã tấn phong ngôi Hoàng hậu cho bà Tống Thị Lan mẹ của Hoàng tử Cảnh và Hoàng tử Chiêu ngay khi ông còn tại vị. Sách Đại Nam thực lục cho biết, năm Bính Dần (1806), mùa Thu, tháng 7, ngày Kỷ Mùi, vua sách lập vương hậu Tống Thị Lan làm Hoàng hậu... Ngày Quý Hợi, vua ngự ở điện Thái Hòa nhận lễ mừng, hạ chiếu bố cáo trong ngoài…
Như vậy, bà Tống Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu sau lễ lên ngôi Hoàng đế Gia Long chỉ có 2 tháng (vua lên ngôi vào ngày Kỷ Mùi, tháng 5, năm Bính Dần). Do đó, không thể khẳng định vua Gia Long đã đặt ra lệ bất lập Hoàng hậu như thuyết nêu trên.
Có một thực tế, kể từ thời vua Minh Mạng (vị vua thứ 2 của triều Nguyễn) trở đi, các vua kế vị sau đều không lập vợ mình ngôi Hoàng hậu khi tại vị (trừ bà Hoàng hậu Nam Phương thời vua Bảo Đại). Các bà vợ của vua chỉ được sách phong làm phi, tần và ngôi cao nhất là Hoàng quý phi.
Tai sao trieu Nguyen tu Minh Mang den Khai Dinh khong lap Hoang hau?
Tranh vẽ chân dung Hựu Thiên thuần hoàng hậu. 
Nhắc đến vua Minh Mạng, nhiều tư liệu lịch sử cho biết, ông rất nhiều phi tần, nhiều đến mức phải giải phóng bớt đi. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, mùa xuân, năm Minh Mạng thứ 6, tháng giêng trong kinh thành ít mưa, vua lo sợ hạn hán, cho rằng trong thâm cung có nhiều âm khí uất tắc, nên đã giải phóng bớt một trăm người, để mong giải trừ thiên tai.
Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả vua Minh Mạng có tổng cộng 43 bà vợ được ghi rõ lai lịch. Bà Hồ Thị Hoa (thụy là Tá Thiên nhân Hoàng hậu, người vợ mà vua có nhiều tình cảm nhất), là người Bình An, tỉnh Biên Hòa, con gái Phúc Quốc công Hồ Văn Bôi. Bà được tuyển vào cung năm 1806, từ khi Hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng sau này) còn ở Tiềm để (nơi ở của Thái tử trước khi lên ngôi). Bà là người rất hiền thục, trinh thuận, hết lòng hiếu kính, nên được vua Gia Long đổi tên là Thực (nghĩa là quả). Bà sinh được Hoàng tử Dong (sau đặt theo đế hệ là Miên Tông, là vua Thiệu Trị sau này) mới được 13 ngày thì mất (1807) khi mới 17 tuổi.
Vua Minh Mạng cũng sủng ái bà Ngô Thị Chính, còn húy là Kiều, người huyện Đăng Xương (Quảng Trị) là con của Trưởng cơ Ngô Văn Sở. Bà vào hầu Minh Mạng từ hồi vua còn ở tiềm để, rồi được tấn phong làm Hiền phi. Bà sinh được 5 hoàng tử, 4 công chúa.
Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) vua đặt cửu giai (9 bậc phi tần) và Hoàng quý phi ở trên bậc nhất giai: "Trên nhất giai, đặt một hoàng quý phi để giúp hoàng hậu là ngôi chủ quỹ trong cung, giữ nội chính cho được tề chỉnh". Trong lời dụ của mình vua giải thích rằng: “… ngôi chủ quỹ trong cung (chỉ người vợ cả - hoàng hậu) còn để trống để đợi đức hiền”.
Tai sao trieu Nguyen tu Minh Mang den Khai Dinh khong lap Hoang hau?-Hinh-2
Đoan Huy Hoàng thái hậu (Đức Từ Cung), phi thiếp của vua Khải Định, thân mẫu của vua Bảo Đại. 
Sách Quốc sử di biên của Thám hoa Phan Thúc Trực, ghi chép các sự kiện xảy ra trong giai đoạn 1802-1847, cho biết thêm: Chính cung húy Kiều, con gái doanh tượng quan chưa có con, đệ nhị cung húy Hinh là con gái Lê Tông Chất . Có lần, vua hơi se mình, chính cung cùng đệ nhị cung cùng đi cầu đảo ở chùa Thiên Mạc (Thiên Mụ). Nhị cung nói rằng: “Nếu đắc tội với trời, thì cầu đảo vào đâu được”. Đến lúc vua khỏi, chính cung đem câu nói ấy, tâu với vua. Vua giận lắm! Cho nên, ngôi hoàng hậu vẫn để trống bàn mãi không định được.
Theo như những ghi chép trên có thể thấy, vua Minh Mệnh không phải là người đặt ra tiền lệ không lập Hoàng hậu. Việc lập Hoàng hậu cũng được vua đem ra bàn định nhiều lần, song vua chưa chọn được ai xứng đáng theo quan niệm của ông để đứng vào ngôi vị này.
Đến thời vua Thiệu Trị, vua cũng từng định lập vợ cả là Quý phi Phạm Thị Hằng (bà Từ Dụ) làm Hoàng hậu. Sách Đại Nam liệt truyện cho biết: “Đến khi vua gần mất, mọi việc về sau, đều dặn dò ủy thác cho hậu. Lại diện dụ các quan rằng: Quý phi là nguyên phối (vợ cả) của trẫm, là người Phước đức hiền minh, giúp ta coi công việc trong cung cấm đã 7 năm. Nay ý trẫm muốn sách lập làm hoàng hậu chính ngôi trong cung, tiếc vì việc không làm kịp mà thôi”.
Đến thời vua Tự Đức, lý do cá nhân mà vua cũng chưa lập được Hoàng hậu. Trước khi băng hà (19/7/1883), vua đã di ngôn truyền phải phong chính thất của mình là Quý phi Vũ Thị Duyên làm Hoàng hậu.
Tai sao trieu Nguyen tu Minh Mang den Khai Dinh khong lap Hoang hau?-Hinh-3
Nam Phương Hoàng hậu. 
Các vua kế vị tiếp theo cho đến vua Khải Định cũng không lập Hoàng hậu. Bà Hồ Thị Chỉ được coi là chính thất của vua Khải Định cũng chỉ được phong đến bậc Ân Phi (Đệ nhị giai phi).
Có ý kiến cho rằng các vua kế vị không lập hoàng hậu là do không dám vượt tiền lệ của vua Minh Mạng. Theo tác giả Lê Nguyễn trong cuốn Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử: “Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và các vua kế vị không tuyên phong hoàng hậu không xuất phát từ một tiền lệ nào cả, đơn giản vì các ngài chưa tìm được người xứng đáng để đưa vào ngôi vị này, hoặc chưa đến lúc cần làm việc đó. Một hậu duệ của các ngài là vua Bảo Đại vẫn đường hoàng tấn phong Nam Phương Hoàng hậu mà đâu cần một sự phá lệ nào”.

3 chiếc ấn báu “ngọc tỷ truyền quốc” của vua chúa Việt Nam

Các ấn tín của nhà Nguyễn được chia làm hai loại: Loại ấn bằng vàng gọi là "kim bửu tỷ" hay "kim tỷ" và loại ấn bằng ngọc hay còn gọi là "ngọc tỷ”.

Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn cũng như các vương triều trước đó đều coi ấn tín biểu thị cho quyền lực tối cao, là báu vật của quốc gia và tượng trưng cho đế quyền. Triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn báu, có rất nhiều loại ấn tín nhà Nguyễn khác nhau từ hình dáng đến họa tiết, chất liệu… Rất nhiều trong số đó là những ấn tín độc đáo có một không hai.

Điểm danh những bảo vật vô giá của vương triều Nguyễn

(Kiến Thức) - Ngai vàng ở điện Thái Hòa, ấn Sắc Mệnh Chi Bảo, Cửu vị thần công... là những cổ vật đặc biệt của nhà Nguyễn đã được công nhận là bảo vật quốc gia Việt Nam. Cùng điểm qua những nét chính về các bảo vật này.

Diem danh nhung bao vat vo gia cua vuong trieu Nguyen
1. Là công trình quan trọng nhất trong khu vực Hoàng thành Huế, điện Thái Hòa là nơi đăng quang và trị vì đất nước của các vị vua nhà Nguyễn. Ngày nay, cung điện đặc biệt này vẫn còn lưu giữ ngai vàng, biểu tượng quyền lực của triều đại, được truyền qua 13 đời vua Nguyễn.

Giải mã bí ẩn về người đầu tiên xây dựng triều Nguyễn ở Đàng Trong

22 tuổi đã dẫn đầu hạm đội phá tan chiến thuyền của người Nhật Bản và được chúa Nguyễn Hoàng ngợi khen “anh kiệt”. Trong 22 năm ở ngôi chúa, ông đã xây dựng vương triều độc lập ở Đàng Trong, mở mang ngoại thương, được dân chúng yêu quý gọi là chúa Sãi.

Nguyễn Phúc (Phước) Nguyên là chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong. Ông sinh năm 1563, là con thứ sáu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đồng thời là người đầu tiên trong dòng dõi chúa Nguyễn mang họ Nguyễn Phúc. Nguyễn Phúc Nguyên luôn được chúa Nguyễn Hoàng ngợi khen “anh kiệt”. Năm 22 tuổi, ông dẫn một hạm đội phá tan hai chiến thuyền của người Nhật Bản vào đánh phá ở Cửa Việt (Quảng Trị). Năm 29 tuổi, ông được cử trấn thủ dinh Quảng Nam. Năm 1613, chúa Nguyễn Hoàng lâm bệnh nặng và qua đời, Phúc Nguyên được kế vị. Trong thời gian ở ngôi chúa, ông đã xây dựng một vương triều độc lập ở Đàng Trong, từng bước ly khai và tách hoàn toàn khỏi chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông được dân chúng yêu quý và gọi là chúa Sãi. 
Giai ma bi an ve nguoi dau tien xay dung trieu Nguyen o Dang Trong
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ảnh minh họa. 
Theo Lịch sử Việt Nam, lên kế vị năm 1613 thì đến năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên cho cải tổ bộ máy hành chính, tự bổ dụng tất cả quan lại, thải hồi hết thuộc tướng của họ Trịnh, chia đất Thuận Quảng thành nhiều dinh và bắt đầu đặt Tam ty. Trụ sở chính quyền đặt tại chính dinh (Dinh Cát), gồm ba cơ quan chính là ba ty chính, sau đặt thêm hai ty phụ. Dưới dinh là phủ, huyện hay châu. Năm 1615, Nguyễn Phúc Nguyên bắt đầu quy định về chức vụ của quan lại ở phủ, huyện. Ngoài ra, chúa Sãi còn chú trọng sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục. Năm 1620, hai người em của chúa Sãi là Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch gửi mật thư xin họ Trịnh phát binh, tự mình làm nội ứng, hẹn khi nào việc họ Trịnh xong thì chia Đàng Trong cho trấn giữ. Chúa Trịnh khi đó là Trịnh Tráng đã điều tướng Nguyễn Khải, phối hợp với hai nội ứng Hiệp và Trạch, đem 5.000 quân vào đóng ở cửa Nhật Lệ (thuộc huyện Phong Lộc) để đợi đánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Nguyên sai tướng dẹp được hai người em, quân Trịnh phải rút. Thấy chúa Trịnh vô cớ nổi binh, Nguyễn Phúc Nguyên mới tỏ rõ thái độ đối lập với họ Trịnh, cắt đứt quan hệ lệ thuộc và không nộp thuế hàng năm cho chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài. Sự kiện này mở đầu cho thời kỳ xung đột đạt đến điểm cao độ, dẫn đến cuộc nội chiến tương tàn kéo dài từ năm 1627 đến năm 1672 giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn.

Đọc nhiều nhất

Tin mới