Sự thất truyền và đồng hóa của văn hóa Việt cổ

(Kiến Thức) - Theo các sử gia lớn thì dân Bách Việt đã cư trú trước khắp miền Nam Trung Hoa hiện nay.

Trải qua hàng ngàn năm bị dân tộc Hoa - một dân tộc du mục thiện chiến phương Bắc - tràn xuống xâm chiếm lãnh thổ, tiếp theo là hàng ngàn năm bị đô hộ và "đồng hóa" nền văn hóa cổ của cả một dân tộc bị ra sức xóa bỏ cùng với chữ viết "Khoa Đẩu".
Tìm lại nền văn minh bị thất truyền
Tuy nhiên, cốt lõi của nền văn minh nông nghiệp phát triển rất sớm của dân tộc này cùng những "thuần phong mỹ tục" đi theo thì không thể xóa bỏ, nhưng đã bị "đồng hóa" vào nền văn hóa của kẻ chiến thắng, thành nền văn hóa Hán tộc, nhất là từ sau khi chữ Hán Nho được phổ biến.
Kẻ chiến thắng thống trị đã biến chúng thành sản phẩm của chính mình sau khi đã cố gắng xóa bỏ mọi vết tích của nền văn hóa Âu Lạc cổ. Tuy nhiên, các học giả lỗi lạc sau này của chính nước Trung Hoa khi viết về Lịch Toán Can Chi cũng không rõ nguồn gốc lịch này có từ bao giờ và từ đâu lại. Họ chỉ đơn thuần căn cứ vào sự ghi chép đơn giản trong Sử Ký Tư Mã Thiên sau này. Họ vẫn thắc mắc về nguồn gốc hình thành Hệ Can Chi, không hiểu vì sao "con chuột hôi hám" lại có thể đứng đầu 12 Địa Chi! (vì Tý là con chuột). Còn con Rồng (Thìn) cao quý lại phải đứng hàng thứ năm?
Đây không phải là sự phủ nhận nền văn hóa vĩ đại của nước Trung Hoa suốt quá trình lịch sử lâu dài, mà chỉ là để góp phần chứng minh sự đóng góp quan trọng của nền văn minh Việt cổ trong nền văn hóa rộng lớn của các nước Á Đông mà Trung Quốc là đại diện hiện nay. Chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tác giả mong bạn đọc bổ cứu để làm sáng tỏ thêm nền văn minh Việt cổ của tổ tiên xưa đã bị thất truyền.
Bốn chữ Quốc Tổ Hùng Vương được viết bằng chữ Khoa Đẩu.
Bốn chữ Quốc Tổ Hùng Vương được viết bằng chữ Khoa Đẩu. 
Sử chứng cho vùng đất rộng lớn của người Việt cổ
Nhiều tài liệu cổ của Trung Quốc cũng đã công nhận, các vùng đất rộng lớn giữa lưu vực hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử vốn là địa bàn cư trú của dân tộc Bách Việt...
Âu Việt, có chữ Âu, có thể là loại chim phổ biến trên vùng đồi núi, ven các triền sông xưa, gần giống như loài Hải Âu sau này.
Lạc Việt, có chữ Lạc, là loại Ngỗng trời hay bay từng đàn lúc chiều tà để tìm nơi trú ẩn. Từ "Lạc" sau này lại đã biến thành từ "Hạc" và trở thành con "Hạc thờ" ở các Đền - Miếu khắp đất nước từ thời xưa đến nay.
Lãnh thổ của Âu Việt và Lạc Việt: Nhiều tài liệu cổ của Trung Quốc cũng đã công nhận, các vùng đất rộng lớn giữa lưu vực hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử vốn là địa bàn cư trú của dân tộc Tam Miêu và Bách Việt, trong đó dân tộc Việt Thường ở phía Nam lưu vực sông Dương Tử, từ hồ Động Đình và Phiên Dương (thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc và Lưỡng Quảng ngày nay) trở xuống là đã có một nền văn minh lúa nước rất phát triển.
Dựa theo nhiều công trình nghiên cứu về cổ sử và dân tộc học châu Á của nhiều học giả trên thế giới đều có kết luận chung rằng: Người Hoa xưa kia vốn là một bộ tộc du mục thiện chiến ở phía Tây Bắc Trung Quốc, đã sớm thôn tính các quốc gia lân cận thành lập một liên bang rộng lớn miền Bắc Trung Quốc, sau tràn xuống chiếm hết vùng Trung Nguyên và cả miền nam Trung Quốc hiện nay. Thời kỳ tiền sử xa xôi đó, ở lưu vực hai con sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử của Trung Quốc, vốn là địa bàn cư trú của các dân tộc gọi là Tam Miêu và Bách Việt. Gọi là Bách Việt không phải nhất thiết là có 100 giống Việt mà số 100 chỉ là để chỉ nhiều bộ tộc Việt khác nhau chuyên nghề chài lưới, đánh cá và trồng lúa nước, cùng chung sống ở khắp lưu vực các sông này khi xưa mà thôi.
Ngay trên mảnh đất nhỏ hẹp còn lại là nước Việt Nam ngày nay, ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số còn tới hơn 50 dân tộc thiểu số anh em khác sinh sống. Như thế thì vào thời cổ đại từ "Bách Việt" chắc chắn là để chỉ vài trăm dân tộc chung sống trên một địa bàn rộng lớn và có nền văn hóa gần giống nhau. Dân Bách Việt xưa gồm: Âu Việt có Miến, Thái, Lào... Miêu Việt có Mèo, Mán, Lô Lô... Lạc Việt có Việt, Mường, Tày, Thổ... Tất cả các chủng Việt này gọi chung là Bách Việt. Sách Trung Quốc xưa còn gọi họ là Viêm Việt (vì họ tìm ra lửa đầu tiên, biết chế tác nhiều thứ từ "lửa" nên gọi là "viêm" - có nghĩa là nhiệt, nóng).
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa. 
Vì các dân tộc này chiếm cứ khắp vùng Trung Nguyên từ lâu đời, nên họ đã có một nền văn minh lúa nước rất phát triển. Để phục vụ cho nghề nông tất yếu họ phải hiểu biết khá tốt về thiên văn lịch toán và không thể không có chữ viết. Dân tộc Hán dưới thời vua Nghiêu gọi chữ của họ là chữ "Khoa Đẩu, (có lẽ vì chữ buổi sơ khai chỉ là những ký hiệu "chấm trắng" và "chấm đen" nối nhau cùng những vạch đứt và vạch liền, trông giống như những con nòng nọc (• ). Đây cũng chính là các chữ số ghi bằng các ký hiệu trên trong hai bảng Hà Đồ và Lạc Thư cổ.
Sử gia Trung Quốc Chu Cốc Thành trong cuốn "Trung Quốc Thông Sử" của ông cũng viết rằng: "Viêm tộc (chỉ dân Tam Miêu và Bách Việt) đã bước vào nước Tàu trước theo sông Dương Tử. Thoạt đầu chiếm 7 tỉnh Trường Giang rồi tỏa lên phía Bắc chiếm 6 tỉnh Hoàng Hà, rồi lan xuống miền Nam chiếm 5 tỉnh Việt Giang, gồm tất cả 18 tỉnh. Vì thế, khi Hoa tộc vào thì Viêm Việt đã cư ngụ khắp nơi... Mãi sau Hoa tộc mới theo sông Hoàng Hà chiếm 6 tỉnh miền Bắc đẩy dân Tam Miêu đi, rồi mới tỏa xuống phía Nam đẩy lùi Viêm Việt"...
Sự xâm lăng này của Hoa tộc kéo dài nhiều ngàn năm mới đồng hóa nổi các dân tộc phía Nam.
Theo sử gia Mỹ Harald Wiens, tại Đại học Yale (Mỹ), trong cuốn "Chinese expansion in South China" cũng viết: "Viêm Việt đã vào nước Tàu theo ngọn sông Dương Tử miền nước Thục. Vì thế cũng gọi văn minh Viêm Việt là văn hóa Thục Sơn. Trong 600 sắc tộc được nghiên cứu thì nổi bật là Thái và Việt. Thái nổi về chính trị còn Việt nổi về văn hóa".
Như vậy, theo các sử gia lớn trên thì dân Bách Việt đã cư trú trước khắp miền Nam Trung Hoa hiện nay. Trước thời đại Hạ Vũ, nước Tàu mới chỉ là một châu: Châu Đào Dương do vua Nghiêu cai trị, hiệu là Đào Đường. Từ Hạ Vũ về sau mới mở rộng đất đai ra vùng Hoa Hạ và nước Tàu xưa mới trở thành nước Trung Hoa rộng lớn.
Trước nạn bành trướng của người Hán dân Văn Lang xưa luôn tìm cách "cống nạp" để mong bang giao và cầu hòa. Năm thứ 6 đời Thành Vương nhà Chu (tức năm Tân Mão - 1.110 trước CN), sử Trung Quốc cổ cũng chép: "Phía Nam Giao Chỉ có người Việt Thường sang dâng chim Trĩ, qua ba lần thông ngôn, nói rằng: Đường xá xa xôi, non sông cách trở, sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau, cho nên phải qua ba lần thông ngôn để sang chầu... Chu Công nói: Đức trạch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận lễ sơ kiến. Chính lệnh không khắp tới nơi, người quân tử không nhận người ấy xưng thần... Đến khi sứ giả về quên mất đường, Chu Công cho làm xe chỉ nam... sứ giả đi xe ấy theo đường biển... đầy năm trời mới về đến nước" (Ngự phê thông giám tập lãm - quyển 3 tờ 10).
Như vậy, sứ giả Việt Thường trên phải đi đường biển gần một năm mới về đến nước, rất có thể là sứ thần của các bộ tộc Lạc Việt tận miền lưu vực đồng bằng Bắc bộ ngày nay.

Lạ lùng tộc người giống người Việt cổ trên đảo Borneo

Đảo Borneo, hòn đảo lớn nhất Đông Nam Á thuộc lãnh thổ các quốc gia Brunei, Malaysia và Indonesia là nơi sinh sống của dân tộc Dayak – một cộng đồng người có nền văn hóa cổ xưa và độc đáo.
Đảo Borneo, hòn đảo lớn nhất Đông Nam Á thuộc lãnh thổ các quốc gia Brunei, Malaysia và Indonesia là nơi sinh sống của dân tộc Dayak – một cộng đồng người có nền văn hóa cổ xưa và độc đáo.

Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tổ tiên của họ đã di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Xã hội Dayak bắt đầu khởi sắc khi nghề luyện kim được truyền đến hòn đảo này cách nay khoảng 2.450 năm, tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ở Việt Nam.
Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tổ tiên của họ đã di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Xã hội Dayak bắt đầu khởi sắc khi nghề luyện kim được truyền đến hòn đảo này cách nay khoảng 2.450 năm, tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ở Việt Nam.

Cộng đồng Dayak gồm hàng trăm sắc tộc khác nhau cư trú rải rác khắp đảo Borneo. Họ nói hàng trăm phương ngữ khác nhau nhưng tất cả đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesien). Ở Việt Nam có nhiều dân tộc sử dụng ngữ hệ này, như dân tộc Chăm, Êđê, Gia Rai, Ra Glai và Churu.
Cộng đồng Dayak gồm hàng trăm sắc tộc khác nhau cư trú rải rác khắp đảo Borneo. Họ nói hàng trăm phương ngữ khác nhau nhưng tất cả đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesien). Ở Việt Nam có nhiều dân tộc sử dụng ngữ hệ này, như dân tộc Chăm, Êđê, Gia Rai, Ra Glai và Churu.

Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp... Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới.
Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp... Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới.

Tôn giáo của người Dayak là đạo Kaharingan, một dạng Hindu giáo đã bản địa hóa theo thuyết đa thần ở Borneo. Họ đặc biệt tôn thờ hình tượng rồng và chim thần, hai linh vật trong truyền thuyết về sự ra đời của dân tộc Dayak. Đặc điểm này khá giống với các cư dân Việt cổ thời Hùng Vương, những người coi mình là “con Rồng, cháu Tiên” và tôn vinh hình tượng chim lạc như biểu tượng của đất nước.
Tôn giáo của người Dayak là đạo Kaharingan, một dạng Hindu giáo đã bản địa hóa theo thuyết đa thần ở Borneo. Họ đặc biệt tôn thờ hình tượng rồng và chim thần, hai linh vật trong truyền thuyết về sự ra đời của dân tộc Dayak. Đặc điểm này khá giống với các cư dân Việt cổ thời Hùng Vương, những người coi mình là “con Rồng, cháu Tiên” và tôn vinh hình tượng chim lạc như biểu tượng của đất nước.

Người Dayak cũng có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực...
Người Dayak cũng có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực...

Một phong tục tương đồng của người Việt cổ và người Dayak, ít thấy có ở các dân tộc khác trong khu vực, đó là tục xăm mình.
Một phong tục tương đồng của người Việt cổ và người Dayak, ít thấy có ở các dân tộc khác trong khu vực, đó là tục xăm mình.

Với người Dayak, hình xăm thể hiện mối liên hệ với các linh hồn, thần linh hoặc tổ tiên và nhằm xua đuổi bệnh tật, tai họa, đồng thời cũng là nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành, nhận biết đẳng cấp, địa vị trong bộ tộc hoặc phân biệt bạn với thù...
Với người Dayak, hình xăm thể hiện mối liên hệ với các linh hồn, thần linh hoặc tổ tiên và nhằm xua đuổi bệnh tật, tai họa, đồng thời cũng là nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành, nhận biết đẳng cấp, địa vị trong bộ tộc hoặc phân biệt bạn với thù...

Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.

Trang phục của phụ nữ Dayak thay đổi tùy theo vùng, nhưng đều là những bộ váy làm từ thổ cẩm được trang hoàng bằng những hoa văn rực rỡ. Họ đeo cả những chiếc mũ trang trí cầu kỳ vào những dịp đặc biệt.
Trang phục của phụ nữ Dayak thay đổi tùy theo vùng, nhưng đều là những bộ váy làm từ thổ cẩm được trang hoàng bằng những hoa văn rực rỡ. Họ đeo cả những chiếc mũ trang trí cầu kỳ vào những dịp đặc biệt.

Phụ nữ Dayak thường căng dái tai mình bằng những chiếc vòng kim loại nặng. Đây là cách làm đẹp tương tự các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Việt Nam như Ê đê, Bana, M'nông, Mạ, Stiêng…
Phụ nữ Dayak thường căng dái tai mình bằng những chiếc vòng kim loại nặng. Đây là cách làm đẹp tương tự các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Việt Nam như Ê đê, Bana, M'nông, Mạ, Stiêng…

Theo truyền thống, nhiều thế hệ người Dayak cùng sinh sống trong những căn nhà sàn có chiều dài hơn 50m, có sức chứa từ 30 - 40 gia đình và được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ.
Theo truyền thống, nhiều thế hệ người Dayak cùng sinh sống trong những căn nhà sàn có chiều dài hơn 50m, có sức chứa từ 30 - 40 gia đình và được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ.

Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống.
Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống.

Màu sắc ở các hình vẽ, hoa văn chạm khắc trong ngôi nhà này có ý nghĩa riêng của nó. Đáng tiếc rằng các ngôi nhà này đang biến mất dần theo nhịp sống hiện đại.
Màu sắc ở các hình vẽ, hoa văn chạm khắc trong ngôi nhà này có ý nghĩa riêng của nó. Đáng tiếc rằng các ngôi nhà này đang biến mất dần theo nhịp sống hiện đại.

Người Dayak có một tập tục được cả thế giới biết đến, đó là tục săn đầu người giữa các bộ tộc. Đây là cách để bảo vệ lãnh địa sinh sống và khẳng định sức mạnh của các chiến binh và bộ tộc. Vũ khí chính trong các cuộc săn đầu người là giáo và khiên. Những chiếc sọ người sẽ được cất giữ trong nhà và sử dụng trong nhiều nghi lễ khác nhau.
Người Dayak có một tập tục được cả thế giới biết đến, đó là tục săn đầu người giữa các bộ tộc. Đây là cách để bảo vệ lãnh địa sinh sống và khẳng định sức mạnh của các chiến binh và bộ tộc. Vũ khí chính trong các cuộc săn đầu người là giáo và khiên. Những chiếc sọ người sẽ được cất giữ trong nhà và sử dụng trong nhiều nghi lễ khác nhau.

Ít ai biết rằng dân tộc Cơ tu ở khu vực miền Trung Việt Nam cũng từng có một tục săn đầu người tương tự. Điều này được ghi nhận bởi các học giả Pháp, theo đó, săn máu và lấy đầu người của làng khác là một nhiệm vụ trọng đại để tế thần linh nhằm cầu xin mùa màng tươi tốt, không bị dịch bệnh và tai ương.
Ít ai biết rằng dân tộc Cơ tu ở khu vực miền Trung Việt Nam cũng từng có một tục săn đầu người tương tự. Điều này được ghi nhận bởi các học giả Pháp, theo đó, săn máu và lấy đầu người của làng khác là một nhiệm vụ trọng đại để tế thần linh nhằm cầu xin mùa màng tươi tốt, không bị dịch bệnh và tai ương.

Tục lấy đầu người của người Dayak kéo dài cho đến những năm 1970, đến bây giờ đã chấm dứt hoàn toàn.
Tục lấy đầu người của người Dayak kéo dài cho đến những năm 1970, đến bây giờ đã chấm dứt hoàn toàn.

Về mặt nghệ thuật, người Dayak nổi tiếng với vũ điệu ngajat, lấy cảm hứng từ cuộc chiến của các chiến binh. Họ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.
Về mặt nghệ thuật, người Dayak nổi tiếng với vũ điệu ngajat, lấy cảm hứng từ cuộc chiến của các chiến binh. Họ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.

Nhìn chung, dân tộc Dayak được các nhà nghiên cứu nhìn nhận là một trong những tộc người có nền văn hóa độc đáo nhất trên thế giới.
Nhìn chung, dân tộc Dayak được các nhà nghiên cứu nhìn nhận là một trong những tộc người có nền văn hóa độc đáo nhất trên thế giới.

Ngày nay, sự phát triển của du lịch và các tiện nghi của cuộc sống hiện đại đang khiến nền văn hóa này đứng trước nhiều thách thức lớn. Ảnh: Internet.
Ngày nay, sự phát triển của du lịch và các tiện nghi của cuộc sống hiện đại đang khiến nền văn hóa này đứng trước nhiều thách thức lớn. Ảnh: Internet.

Bí ẩn khó giải: Hết bệnh nhờ… "vong nhập"?

(Kiến Thức) - Chuyện Lurancy Vennum khỏi chứng điên dại nhờ bị "vong nhập" từng gây rúng động nước Mỹ. Đó là sự thực hay chỉ là trò bịp bợm của gia đình cô?

Lurancy Vennum sinh ngày 16/4/1864 tại thị trấn Milford cách Watseka (Mỹ) 7 dặm về phía Nam. Sau nhiều lần chuyển nhà, gia đình cô quyết định dừng chân ở Watseka năm 1871. Kể từ đây, những chuyện ly kỳ bắt đầu xuất hiện.
Lurancy Vennum sinh ngày 16/4/1864 tại thị trấn Milford cách Watseka (Mỹ) 7 dặm về phía Nam. Sau nhiều lần chuyển nhà, gia đình cô quyết định dừng chân ở Watseka năm 1871. Kể từ đây, những chuyện ly kỳ bắt đầu xuất hiện. 

Văn minh Việt cổ “bị đánh cắp” như thế nào?

(Kiến Thức) - Những cứ liệu trong lịch sử Trung Quốc chứng tỏ người Việt có nhiều phát minh vĩ đại, trong đó, lịch rùa chứng minh Việt Nam ra đời trước Trung Quốc.

GS.TSKH Hoàng Tuấn, Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông đã tìm ra những chứng cứ chứng minh về những phát minh lý thú của người Việt trong thời kỳ dựng nước bị kẻ xâm lược cố tình xóa bỏ và đánh tráo. Đó là nền văn hóa nhân bản - là nền văn minh "Lịch toán - Nông nghiệp"...

Đọc nhiều nhất

Tin mới