Sự sống là thiêng liêng

Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Nepal chỉ là một nước nhỏ nằm giữa hai cường quốc khổng lồ và đông dân nhất thế giới, đó là Ấn Độ và Trung Quốc. Với một dân số khoảng 30 triệu người, Nepal đóng một vai trò rất phụ thuộc trong lịch sử phát triển của hai nền văn hóa tại hai nước lớn đó, vốn là hai nền văn hóa lâu đời nhất của loài người.
Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng...
Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng... 

Thực vậy, trong thời cổ đại, vì biên giới của Nepal cũng không hề được xác định rõ, miền đất này chịu ảnh hưởng rõ rệt của hai nước lớn nằm hai bên sườn Hy Mã Lạp Sơn, phía nam bên này là Ấn Độ, phía bắc bên kia là Tây Tạng.

Nghe qua, ta có thể tưởng Nepal là một nơi không có gì đáng chú ý. Thế nhưng, những ai đã đến thăm Nepal sẽ thấy đây là một miền đất vô cùng thú vị. Thực tế, Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng. Mà Ấn Độ và Tây Tạng đều là hai vùng có truyền thống sâu sắc của Phật giáo. Do đó, đến Nepal, nếu có chút tâm yên tĩnh, ta có thể cảm nhận nhiều điều vô cùng sâu lắng.

Nepal không phải chỉ là một mảnh đất bằng phẳng nối liền hai nước mà là một chiếc cầu thang đi ngược từ dưới lên trên, từ bình nguyên Ấn Độ lên cao nguyên chừng 4.600m của Tây Tạng. Thủ đô Kathmandu của Nepal với độ cao 1.300m vốn chỉ là một thung lũng hiền hòa trong một quốc gia chứa khoảng tám đỉnh núi trên 8.000m và 240 đỉnh trên 6.000m.

Do đó con đường đi từ Kathmandu, vượt biên giới tại núi Hy Mã, lên Tây Tạng là một con đường của núi non hùng vĩ, của thác nước trắng xóa và của băng vạn niên chói lọi. Đây hẳn là một trong những con đường đẹp nhất thế gian, đúng như các sách du lịch đều nhất trí thừa nhận. Con đường len lỏi giữa những thung lũng xanh rì mà hai bên là những ngọn núi nổi tiếng, một bên là ngọn Shashi Pangma với độ cao 8.014m, bên kia là những đỉnh bảy tám ngàn mét mà cách đó chừng 120km là ngọn Everest cao nhất thế giới. Trên độ cao chưa đến 3.000m, ta còn thấy rừng cây cổ thụ xanh mướt với những dòng thác như những dải lụa bạc thả vài trăm mét từ trên núi cao. Cao hơn nữa, rừng nhiệt đới biến mất, nhường chỗ cho thảo nguyên ngút ngàn với vô số bụi cây dại, thấp sát đất, nở đầy hoa. Thiên nhiên mở rộng vô biên, xa xa chỉ còn những đỉnh núi chói lọi tuyết trắng. Trên cao nguyên, bầu trời thường có một màu xanh thẫm như nhung. Lạ thay, bầu trời lại tối trong lúc mặt đất sáng lên một màu đồng của đá và ánh chiếu từ băng vạn niên nằm cao trên đỉnh.

Thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.
 Thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa
mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.

Đi qua những cảnh thiên nhiên kỳ diệu như thế, con người đô thị như chúng ta sẽ choáng ngợp, tâm sẽ chuyển động cực mạnh. Đến vùng đất vắng người này, con người sẽ chứng kiến sự kỳ diệu của sắc màu và cảnh quan lạ lùng của tạo hóa. Và chỉ cần một chút tâm nhạy cảm, con người sẽ đến với một nhận thức, một tri kiến khác lạ. Đó là thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.

Từ sự nhận biết đó, trong cảnh hùng vĩ của núi sông, của băng tuyết, của mặt trời, của sự vận hành không ngừng trong thiên nhiên, người ta sớm cảm nhận thấy rằng thế giới này do một năng lượng nhất định tạo nên, dù không mấy ai biết năng lượng đó từ đâu đến. Một năng lượng vô tận nhưng vô hình đang vận hành, đó là điều mà con người khi đứng trên cao nguyên Tây Tạng, trên "mái nhà thế giới", sẽ cảm nhận một cách vô cùng rõ nét.

Đứng trước một cảnh quan vĩ đại như thế, con người vừa cảm thấy một lòng kính sợ trước chiều sâu thẳm và sinh động của vũ trụ, mặt khác vừa thấy chính mình cũng là một biểu hiện của sự sống, của năng lượng. Con người vừa thấy mình như là trung tâm, là tiêu điểm, là trục quy chiếu để ngắm nhìn thế giới, đồng thời lại thấy mình là một sự xuất hiện vô cùng nhỏ bé bên cạnh những dạng hình khổng lồ khác của năng lượng. Hai cảm nhận đó thường mâu thuẫn trong đời sống bình thường nhưng nơi đây lạ một điều là chúng không loại bỏ lẫn nhau nữa. Vì nơi đây dạng hình to nhỏ không còn đóng vai trò, dường như chỉ có một dòng năng lượng đang vận hành, nó "ứng" vào đâu thì nơi đó có sự hiện hữu.

Con người bình thường như chúng ta tuy cảm nhận được năng lượng này nhưng không giải thích được, lý trí không nắm bắt được nghịch lý của nó sinh ra. Năng lượng này hầu như vừa nằm bên trong, vừa bên ngoài; vừa tại nơi đây vừa cùng khắp; vừa tạo ra thân mình, vừa tạo ra cảnh vật bên ngoài; vừa vô hình vừa mang đủ thứ dạng hình. Tuy không định nghĩa và gọi tên được nó, nhưng điều chắc chắn là người ta thấy nó kỳ diệu. Chỉ cần nhìn sự cấu tạo và hoạt động của cơ thể chính mình, ta có thể thấy sự kỳ diệu đó. Nhìn vào sự vận hành của thiên thể trong vũ trụ hay trong những cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, ta cũng thấy sự kỳ diệu đó.

Xưa nay rất nhiều người đã cảm thấy năng lượng đó. Họ cố tìm một danh tính cho nó. Có người gọi là "Tâm", là "Đạo", là "Tự Tính", là "Tính Không", là "Thượng Đế". Mỗi người cho nó một danh tính riêng mà nội dung và mức độ sâu xa hẳn cũng rất khác nhau. Nhiều người tìm cách "tiếp cận" hay "hòa nhập" với năng lượng đó và cũng vì sự khác biệt trên bước đường tầm cầu đó mà sinh ra rất nhiều môn phái.

Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.
Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Lại cũng có nhiều người từ chối những danh tính nói trên. Đối với một số người, những danh tính đó có tính chất mơ hồ, xa lìa khoa học, trực tiếp dẫn vào lĩnh vực tôn giáo thần bí. Thậm chí có một số người dị ứng hẳn với vài từ, thí dụ "Thượng Đế", cho rằng dùng từ này thì chấp nhận có một thể trạng nhất định đã sáng tạo nên thế giới và con người, điều mà khoa học ngày nay cũng như cả một số tôn giáo bác bỏ.

Hãy gác qua một bên những cuộc tranh luận vô tận xuất phát từ ngôn từ. Điều mà phần lớn chúng ta đều cảm thấy là có một năng lượng đang luân lưu vận hành. Hãy tạm gọi năng lượng đó là "Sự Sống" vì tất cả chúng ta đều thấy có "Sự Sống" trong thân mình. Trong thiên nhiên Sự Sống hẳn cũng hiện diện nên sinh vật và cây cối mới có thể tăng trưởng và sống còn. Trong vũ trụ hẳn cũng phải có một thứ năng lượng vĩ đại đang vận động. Liệu năng lượng đó cũng chính là Sự Sống trong thân chúng ta hay không thì đó là điều mà người bình thường như chúng ta không ai dám khẳng định.

Câu hỏi vừa nêu thực ra là một vấn đề trung tâm của ngành Bản thể học. Cuối cùng có lẽ người suy tư sẽ chạm trán với câu hỏi "Có nhiều Sự Sống hay chỉ một". "Một hay nhiều" là thắc mắc muôn thuở của người tầm cầu mà đầu óc lý luận không thể trả lời thỏa đáng.

Lục tìm lại trong quá khứ, chúng ta bắt gặp lời của một số thánh nhân về luận đề này: "Một nhưng nhiều". Muốn hiểu lời này ta có thể hình dung một thanh nam châm. Thanh nam châm có một tính chất, đó là hai cực từ tính của nó ở mỗi vết cắt. Thế nhưng khi ta cắt ở bất cứ điểm nào thì tại điểm đó đều sinh ra từ tính như vết cắt trước cả, chất lượng như nhau, không hơn không kém. Tương tự như thế, chỉ có một Sự Sống nhưng nó hiện hữu trong mỗi cá thể, kỳ diệu như nhau, "thánh không tăng, phàm không giảm". Loại tri kiến "một nhưng nhiều" là một loại nghịch lý đặc trưng mà ta sẽ gặp khi đi sâu vào lĩnh vực bí nhiệm của tâm linh. Trong lĩnh vực này con người có lẽ phải tạm quên khái niệm của không gian xa gần, to nhỏ thì mới có thể lĩnh hội được.

Đối với nhận thức bình thường của chúng ta, Sự Sống xem ra là một cái gì riêng tư của mỗi người, nó là "của tôi và do tôi tạo ra". Nhận thức này là nguyên nhân tại sao con người thấy mình tách biệt với cái còn lại trên thế giới và nói cho cùng nó là nguồn gốc của mọi sự đau khổ của đời người. Nhận thức đó làm ta sẵn sàng làm điều ác với đồng loại và nó cũng là tác nhân sinh ra mọi nỗi đau khổ thất vọng và trầm cảm mà tại phương Đông cũng như Tây con người đều gặp phải.

Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên. Người đó tự thấy mình chỉ là một dạng xuất hiện của Sự Sống, cũng bình đẳng như Sự Sống xuất hiện nơi một người khác, một sinh vật khác và thậm chí nơi cả thực vật hay loài "vô sinh". Người đó sẽ thấy liên đới với mọi dạng của Sự Sống, thấy mình nằm trong mạng lưới vĩ đại của cái mà ta gọi là thế giới hiện tượng. Người đó đồng thời cũng thấy mình chứa đầy đủ tính chất và khả năng của Sự Sống nguyên thủy và có trách nhiệm với dạng hình của mình đang được ban phát, với xã hội của mình đang nằm xung quanh.

Chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng.
 Chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng.

Chúng ta có lẽ không ai hiểu thấu tất cả những điều nêu trên vì thực ra tri kiến đó quá sâu xa và siêu việt, vượt mọi tầm mức của con người bình thường. Nhưng những ai chỉ cần cảm nhận sơ lược điều này đã thấy mừng run về một điều mà các thánh nhân thời cổ đại đã nói tới. Sự Sống sẽ không những chỉ là "một nhưng nhiều" mà nó còn vô cùng thiêng liêng.

Đối với người đó thì gọi là Sự Sống là "Thượng Đế" hay bất cứ ngôn từ nào khác hay vắng bóng một danh tính đều được cả. Vì có lẽ người đó chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng. Đời sống đô thị và một xã hội đầy tranh chấp khó làm ta hiểu ngộ tính chất của Sự Sống. Cảnh quan thiên nhiên có khả năng đánh thức cảm nhận đó của chúng ta, nó đưa đường dẫn lối cho tri kiến lạ lùng và tuyệt diệu đó.

Xuân sắp về, cỏ cây và thiên nhiên như sẵn sàng đón chào nhiều tâm hồn rộng mở. Con đường xuyên núi ở Nepal là một lựa chọn cho những ai đủ điều kiện, nhưng như đã nói, ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Nâng niu sự sống để không hối tiếc, đau thương

Nâng niu sự sống - Ảnh minh họa
 Nâng niu sự sống - Ảnh minh họa

Chết có đáng sợ?

Nếu câu hỏi được đặt cho những ai xem sự chết là điều “tối kỵ” hoặc còn “nặng nợ” trần gian, với danh, sắc, tài, thực, thùy (ngũ dục) vẫn còn nhiều đeo bám, ràng buộc thì chết quả nhiên đáng ghê, đáng sợ…

Tranh Phật giáo: Đức Phật nhập Niết bàn.
 Tranh Phật giáo: Đức Phật nhập Niết bàn.

Thực ra, chết không đáng sợ. Đối với những người đã… chán sống! Chính vì thế mà ta vẫn thường nghe, đọc, xem những tin tức về việc chọn lựa cái chết, tự động nói lời vĩnh biệt để rồi chết bằng cách tự tử của người lớn lẫn người nhỏ, không loại trừ độ tuổi. 

Những cái chết bằng cách ấy thường để lại những nỗi day dứt nơi những người còn sống, và được gọi tên là nông nỗi, là cạn nghĩ, là dại dột… Nguyên do thì có nhiều, phán xét cho việc tự chết cũng có nhiều, tùy mỗi người, bởi ai cũng có điểm nhìn, hướng nhìn riêng, nên gọi tên cái thấy cũng khác. 
Về mặt tâm linh, theo tinh thần đạo Phật, thì chết không phải là hết, mà thần thức sẽ theo nghiệp mà chiêu cảm, tái sinh hoặc bị đọa địa ngục, hoặc được siêu sanh lên cõi lành tốt, Cực Lạc quốc độ… Tất nhiên, quá trình sống, tu dưỡng nội tâm chính là điều kiện tiên quyết cho tiến trình tái sinh hoặc vãng sinh của người đó. Chính vì vậy, sống là nhân chết là quả, theo đó, nhân lành lúc sống gieo tạo sẽ cho mình cái chết bình an.

Song, dù gì thì người chết cũng đã chết, cái quan trọng là làm sao để họ (thần thức) nhận diện một con đường đúng đắn cho lộ trình tương lai? Và, quan trọng là người ở lại, xã hội đương đại nhìn nhận nguyên nhân và có phương pháp trị liệu để nó không trở thành một thứ lựa chọn bình thường mà con người xem là “tối ưu” mỗi khi có những nỗi khổ, niềm đau.

Đa số, ai cũng cho rằng, những người tự chết là những người cực kỳ yếu đuối, do họ không có khả năng sống trong khổ đau, hay, có ý niệm sai lầm là chạy trốn khổ đau bằng cái chết, hay loại trừ khổ đau bằng cách chết, vì nghĩ, chết nếu đau chỉ một lần. Do thế giới quan chết là hết, là giải thoát nên người ta nghĩ rằng tự tử sẽ coi như chấm dứt, song, ở khía cạnh xã hội thì nó đâu có xong một cách dễ dàng như thế. Cái chết ấy tác động đến những người thân-thương, nỗi đau xót ngậm ngùi dài lâu, cùng những hệ lụy tác động lên tâm thức của những người sống cùng thời đại, tưới tẩm những nỗi bất an, học đòi sai quấy theo hành vi tự hoại của mình.

Về mặt tâm linh, theo tinh thần đạo Phật, thì chết không phải là hết, mà thần thức sẽ theo nghiệp mà chiêu cảm, tái sinh hoặc bị đọa địa ngục, hoặc được siêu sanh lên cõi lành tốt, Cực Lạc quốc độ… Tất nhiên, quá trình sống, tu dưỡng nội tâm chính là điều kiện tiên quyết cho tiến trình tái sinh hoặc vãng sinh của người đó. Chính vì vậy, sống là nhân chết là quả, theo đó, nhân lành lúc sống gieo tạo sẽ cho mình cái chết bình an.

Cổ nhân dạy, “sanh tử sự đại”, cả hai quá trình ấy nương nhau biểu hiện, khi mình đã sống một đời tử tế, không vướng bận tục lụy thế gian thì việc “xả báo thân tứ đại” (chết) mới thật sự an lạc. Đồng thời, mình phải thấy một con đường, nhận diện sâu sắc về tiến trình sanh-trụ-dị-diệt, vô thường, nhân quả thì mình sẽ thấy cái chết là hiển nhiên, và mình đi đến việc chết (tự nhiên) để bước tiếp trên lộ trình tu-học một cách hanh thông, tiến bộ. Cái chết đối với những người nhìn nhận được con đường như thế thì nhẹ như lông hồng, vì đã biết rõ con đường sanh-diệt đương nhiên, đến thì biết là đến, đi thì đi thôi, không có sợ hãi, ngại ngần.

Trở lại với việc chọn cái chết vì quá túng quẩn, do thất bại, do gặp những nghịch duyên nào đó, do bị phụ rẩy tình cảm… là cái chết mang theo nhiều uất ức, hận thù. Với cái tâm ấy thì tiến trình tái sinh sẽ phải gặp nhiều khổ đau, vì nhân như vậy, quả làm sao tốt lành được? Phật dạy, nhất thiết duy tâm tạo, chính là muốn chỉ mọi thứ sẽ bị dẫn dắt bởi tâm-ý con người. Nếu mình nghĩ rằng chết là hết hoặc chết để có cơ hội thành… ma mà báo thù thì cái tâm sai lầm ấy sẽ biến mình đi trong đường lầm lạc, đen tối. Đương nhiên, khổ là kết quả chắc chắn!

Nhiều cái chết nhẹ tựa lông hồng là của những bậc Thánh. Vì, các Ngài đã thấy rõ tứ đại vô thường. Và tu tập với những oai nghi cơ bản, hành đạo là lấy thân tứ đại làm pháp thân nên chết cũng là một bài pháp nếu cần. 

Do vậy, mà từ 26 thế kỷ trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới hiện thân tứ đại và khi đến 80 tuổi, sau khi thấy việc hoằng pháp đã hoàn mãn thì Ngài xả báo thân trong ý niệm Như Lai đến-đi để các môn đệ không ỷ lại có Như Lai mà không lo chuyên tâm tu tập giải thoát. Điều đó, được ghi lại trong kinh Di giáo (HT.Thích Trí Quang dịch), như sau:

Lúc bấy giờ trong chúng, hàng đệ tử hữu học phải đối diện sự kiện Đức Phật sẽ vô dư Niết-bàn, đều bi cảm, đau xót. Hàng đệ tử mới vào đạo nghe những lời dạy cuối cùng đều được hóa độ, như trong đêm tối nhờ có ánh sáng, nên thấy đường đi. Các hàng đệ tử vô học đã dứt sạch các phiền não, vượt ra khỏi sanh tử, vẫn không ngăn được sự ngậm ngùi: “Tại sao Đức Thế Tôn vô dư Niết-bàn quá sớm!”. Lúc đó, Đức Phật vì thương bốn chúng nên dạy thêm rằng: 

- Này các đệ tử, chớ có thảm sầu, đau xót. Dẫu Như Lai có sống thêm ở đời một kiếp nữa, rồi cũng phải đến ngày Niết-bàn. Hội ngộ mà không chia tay; kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. 

Đối với Như Lai, kinh nghiệm và pháp thức lợi mình, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố. Thật chẳng có lợi ích gì, nếu Như Lai sống lâu nơi đời mà các vị không thực hành chánh pháp. Những chúng sanh đáng độ, Như Lai đã độ hết. Những chúng sanh chưa được độ, Như Lai cũng đã tạo nhân duyên để họ được hóa độ. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất diệt ở thế gian. Như Lai vô dư Niết-bàn hay không, việc đó không quan trọng. 

Này các đệ tử, các vị nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyến, thương tâm. Cuộc đời là như thế, các vị phải nỗ lực tinh tấn để tự giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự vận hành không kiên định. Như Lai vô dư Niết-bàn như bỏ đi một căn bệnh dữ. Đó là năm nhóm nhân tính, mang tính tội lỗi, tạm gọi là thân, vì thế, nó phải chịu sự chi phối không thương tiếc của già, bệnh và chết. Bậc tuệ trí khi thoát khỏi nó có cảm tưởng như là dẹp xong được bọn cướp. Như vậy, chết không đáng để hoan hỷ, an lạc hay sao?

Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.

Đến thời hiện đại, khi xảy ra pháp nạn năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo thì phong trào đấu tranh của Phật giáo diễn ra sâu rộng. Trong đó, dấu ấn nổi bật, làm chấn động thế giới là sự kiện Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Hình ảnh Ngài vững chãi trong ngọn lửa ngùn ngụt cháy đã trở thành biểu tượng bất diệt của niềm tin và sự bất bạo động của Phật giáo, y giáo lời Phật dạy từ ngàn xưa.

Quyết định thiêu thân có nghĩa là quyết định chết, nhưng, sau cái chết ấy, sau ngọn lửa ấy Bồ-tát biết là sự sụp đổ của một chế độ độc tài và sự sống dậy của Phật giáo, của nhân bản con người cũng như sự trường tồn của giáo pháp nên Ngài không ngần ngại.

Đọc kinh Pháp Hoa, đến phẩm 23 - phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự ta thường xúc động vì cách cúng dường Phật của Bồ-tát Dược Vương trong kiếp quá khứ, lúc là Bồ-tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến. Cụ thể, Ngài đã từng nhiều lần lấy thân mình đốt cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai. Từ đó, nhớ về Bồ-tát Thích Quảng Đức, người ngày đêm thọ trì kinh Pháp Hoa cũng chọn “vị pháp thiêu thân” làm bài pháp cuối cùng như một sự tiếp nối hạnh nguyện của Bồ-tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến, coi nhẹ chuyện sống-chết. Tuy là “bài pháp cuối cùng” nhưng thuyết từ năm mươi năm qua, đã in dấu vào núi sông, dân tộc, lòng người và cả thế giới về một “trái tim bất diệt” và ngọn lửa “tồi tà phụ chánh” của người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Những bậc Thánh bao giờ cũng coi nhẹ sanh tử bởi các Ngài hiểu về thực tướng của các pháp, hiểu được “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” nên không sợ, thậm chí biết cách xả báo để truyền trao đạo màu, xốc dậy niềm tin, tinh thần cho chúng sinh.
Những bậc Thánh bao giờ cũng coi nhẹ sanh tử bởi các Ngài hiểu về thực tướng của các pháp, hiểu được “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” nên không sợ, thậm chí biết cách xả báo để truyền trao đạo màu, xốc dậy niềm tin, tinh thần cho chúng sinh.
Nghĩ đến đây, ta thấy mình cần phải tu nhiều, học nhiều từ hành trạng của Phật, của chư vị Thánh Tăng, Tổ sư… để hiểu về sanh tử, để sống thì sống cho tử tế (biết làm lành, lánh dữ) và khi cái chết tới thì mình cứ mỉm cười chào nó, như là thay một chiếc áo cũ mục vậy. Điều này biết là sẽ khó đối với nhiều người, vì ta còn nặng nợ nhiều thứ, còn ham muốn nhiều, còn chưa tin chắc thật vào con đường mình đi, con hoang mang bởi nhiều lý do…

Thôi thì, cứ mỗi ngày một ít, suy nghiệm và thể nghiệm sự sanh tử đang diễn ra quanh mình, trong mình (từ những tế bào già chết) để biết mình của hôm nay là con người mới, được sanh ra bởi hàng triệu tế bào mới, được sống cho một ngày mới để rồi sẽ lại chết, sống muôn kiếp như thế. Cái quan trọng là hiện tại, mình có vui không, có đang nhớ Phật và hành Phật từ mỗi ý nghĩ, lời nói, việc làm hàng ngày không?

Có câu nói mà mọi người vẫn hay nói, rằng đi rồi sẽ tới, nên cứ từ từ mà đi, tùy sức mà đi. Hôm nay ta còn dính mắc nhiều thứ nên thấy cái chết nặng tựa Thái sơn, nhưng khi ta thấy mọi thứ ngũ dục kia là phù phiếm thì ta sẽ thấy chết sẽ nhẹ tựa lông hồng, vì không còn mang nặng âu lo, sợ hãi mất mát chi cả!

TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU

Chén nước xuất sanh

Kỳ lạ chú tiểu, một tay bưng chén nước nhỏ, một tay bắt ấn cam lồ. Ngón tay búng búng, miệng đọc câu kinh.

Chim đại bàng cánh vàng từ ngày Phật tại thế, hướng đến tự lòng mở rộng từ bi. Không cần ăn thịt mà vẫn sống, sống bằng cơm trắng nước trong của Phật ban. Mùi tanh hôi của chúng sanh đồng loại trong những hình hài khác nhau thay bằng mùi tinh khiết, thanh tịnh của rau trái. Chim hoan hỷ sống bên Phật, phát nguyện và hiển bày Phật tánh từ bi.

Đọc nhiều nhất

Tin mới

ZenZ thiền - Sống khỏe sống vui!

ZenZ thiền - Sống khỏe sống vui!

"ZenZ - Thiền cho giới trẻ" do nhóm sinh viên Học viện Ngoại giao phối hợp với Trung tâm Dưỡng sinh Thiền Việt tổ chức là một dự án phi lợi nhuận nhằm lan tỏa sâu rộng hơn những lợi ích của thiền định tới sinh viên và giới trẻ.
4 dấu hiệu cho thấy gia đình đang có phúc lớn

4 dấu hiệu cho thấy gia đình đang có phúc lớn

Cuộc sống gia đình khó tránh khỏi những sai lầm. Nếu đã là quá khứ thì đừng lôi ra để nói, có thế thì càng mâu thuẫn mà thôi. Nếu có mâu thuẫn thì nên giải quyết ngay, nói rõ luôn chứ đừng âm ỉ cháy mãi trong lòng.
Nét đặc biệt của Di tích Quốc gia chùa Tây Phương

Nét đặc biệt của Di tích Quốc gia chùa Tây Phương

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 190/QĐ-TTg phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích Quốc gia Đặc biệt chùa Tây Phương. Cùng điểm qua giá trị “đặc biệt” của ngôi chùa này.