Sóng ngầm trong hậu trường chính trị Sài Gòn tháng 4/1975

(Kiến Thức) - Trong cơn hấp hối của chế độ Sài Gòn, chính trường Sài Gòn vẫn rộn lên những đợt sóng ngầm của các thế lực cả trong và ngoài nước.

Sài Gòn tranh tối tranh sáng
Sau khi để mất Tây Nguyên và duyên hải miền Trung, Nguyễn Văn Thiệu đã nhìn thấy sự sụp đổ trong nay mai của chế độ Sài Gòn. Về phía Cách mạng, sau thắng lợi ở Tây Nguyên, Đảng đã nhìn rõ và quyết tâm chớp thời cơ tiến lên giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Nhưng vào lúc đó, ở Sài Gòn, giới chính trị vẫn tin vào một giải pháp với “lực lượng thứ ba” có thể trì hoãn được bước tiến của quân Giải phóng. Người Mỹ cũng cho đó là một con bài tốt. Bởi vậy họ lập tức tìm cách nắm lấy nó với hy vọng nếu thành công thì họ vẫn còn ảnh hưởng ở miền Nam sau khi Thiệu sụp đổ.
Bây giờ Mỹ mới quay lại với những tuyên bố phản đối Thiệu của Hà Nội và tin rằng Thiệu là sự cản trở duy nhất cho cuộc nói chuyện với Hà Nội. Với ý nghĩ như vậy, Mỹ ép Thiệu phải từ chức vào ngày 21/4/1975 để Trần Văn Hương lên làm Tổng thống.
Nguyễn Văn Thiệu và Kissinger tại Dinh Độc Lập.
  Nguyễn Văn Thiệu và Kissinger tại Dinh Độc Lập.
Thiệu ra đi để lại một khoảng trống quyền lực và ngay tức khắc, tạo ra một cuộc tranh giành giữa các phe phái trong giới chính trị Sài Gòn.
Nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2014), Kiến Thức xin giới thiệu tới độc giả các bài viết về hồ sơ chiến tranh Việt Nam với những thông tin đầy đủ, sinh động và giàu giá trị tham khảo. Kính mời độc giả theo dõi, đón đọc.
Đầu tiên là Trần Văn Hương. Ông lão 70 tuổi này là Phó Tổng thống dưới thời Thiệu. Theo Hiến pháp chế độ Sài Gòn, Hương lên làm Tổng thống thay Thiệu. Tuy nhiên, Hương chưa yên tâm vì Thiệu vẫn còn ở Sài Gòn.
Lấy lý do rằng nếu để Thiệu ở lại có thể phía bên kia sẽ cho rằng Chính phủ của Hương chỉ là một “chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Do vậy, Hương tìm cách đẩy Thiệu rời Việt Nam.
Để thuận tiện, Hương ký nghị định cho Thiệu làm đặc sứ chế độ Sài Gòn sang Đài Bắc phúng điếu Tưởng Giới Thạch vừa qua đời. Tối 25/4, Thiệu đã rời Sài Gòn sang Đài Loan trên máy bay Mỹ. Và để chứng tỏ mình có thực quyền, ông Hương đã yêu cầu gỡ bỏ hết các áp phích chống cộng đồng thời cử người đến trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất nói chuyện với phái đoàn của Chính phủ CMLT nhưng không đem lại kết quả gì.
Một thế lực khác được coi như đại diện “lực lượng thứ ba” là phe nhóm của tướng Dương Văn Minh. Theo hồi ký của dân biểu Lý Quí Chung – một thành viên trong nhóm, từ đầu tháng 4, phe nhóm này đã bàn bạc và hạ quyết tâm giành lấy quyền lực chính trị ở Sài Gòn để thương lượng với Hà Nội và Chính phủ cách mạng lâm thời về một giải pháp chính trị cho miền Nam.
Cũng theo hồi ký của ông Chung và một vài người khác trong nhóm sau này khẳng định mục đích của họ chỉ nhằm đi đến chấm dứt chiến tranh để máu không còn phải đổ nữa. Để thực hiện việc đó họ dự liệu các biện pháp: hoặc thương lượng, hoặc bàn giao chính quyền hoặc là đầu hàng.
Tuy nhiên, nhiều thông tin khác cũng chỉ ra rằng vào ngày 28/4 khi ông Minh lên nắm quyền ông đã không đầu hàng ngay mà vẫn hi vọng vào một giải pháp chính trị. Điều này thể hiện trong câu chuyện giữa ông Minh và viên tướng Timmes.
Cuốn sách của Nguyễn Hữu Thái viết: “Ngay trong sáng hôm đó (28/4), một nhân viên CIA cao cấp và là người quen biết lâu năm của tướng Minh là tướng Timmes đến chào xã giao. Khi hỏi tướng Minh còn có thể làm được gì với tình hình hiện nay. Ông Minh nói nghiêm chỉnh rằng còn có giải pháp và trình bày vắn tắt ý đồ của ông. Nghe xong, tướng Timmes thở dài và nghĩ rằng: Cho đến lúc này mà tướng Minh vẫn còn ảo tưởng bám lấy ý đồ không tưởng đó của Pháp”.
Những người Pháp “mộng du”
Những ngày cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, các đại sứ quán phần lớn di tản khỏi Sài Gòn nhưng sứ quán Pháp thì lại hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Thông qua ông đại sứ Mérillon, Chính phủ Pháp tích cực vận động một giải pháp chính trị cho miền Nam. Họ cũng cử một viên tướng già tên là Vanuxem giả danh ký giả của báo Carrefour (Ngã Tư) đến Sài Gòn để giúp sức Mérillon.
Đại sứ Pháp Mérillon. Ảnh chụp từ sách của Nguyễn Hữu Thái
Đại sứ Pháp Mérillon. Ảnh chụp từ sách của Nguyễn Hữu Thái 
Ông Mérillon tuyên bố: “Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định họ mong muốn thương thảo để có được một sự chấm dứt êm đẹp cho cuộc chiến. Bản thân người Pháp cũng muốn đóng vai trò tích cực nhằm tránh một cuộc tắm máu tại Sài Gòn”.
Nhưng mục đích thật sự của Pháp chỉ là kéo dài thời gian, làm chậm bước tiến của quân Giải phóng để tạo ra một chính phủ trung lập ở miền Nam. Sâu xa hơn, người Pháp muốn quay lại lấp chỗ trống ở xứ này sau khi Mỹ rút đi. Họ sẽ lợi dụng những người thuộc lực lượng thứ ba thân Pháp để làm suy giảm thế lực cách mạng và kéo dài một chế độ miền Nam kiểu cũ trong vòng tay Pháp.
Đợt hoạt động ngoại giao của Pháp cũng đã được nhà sử học Gabriel Kolko nhắc đến trong cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Kolko viết: “Trong lĩnh vực ngoại giao, có một đợt hoạt động liên tục. Người Pháp bây giờ tích cực nhảy vào cuộc và được những nhà chính trị đầy mưu đồ của Sài Gòn giúp đỡ nhằm thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Sau khi Buôn Ma Thuột bị mất, Pháp đề nghị với Cộng sản một phương án mới gạt Thiệu và thi hành Hiệp định Pa-ri”.
Cách mạng cũng không lạ gì tâm địa Pháp nhưng những hoạt động của họ cũng tạo ra những điều tốt nhất định cho Cách mạng. Kolko viết tiếp: “Đảng quyết định nghe họ một cách lịch sự, không làm nản lòng bất kỳ cố gắng nào có thể làm yếu Việt Nam cộng hòa và tránh cho họ phải mất thêm sinh mạng một cách không cần thiết”.
Cho tới khi Xuân Lộc đã mất, vòng vây quanh Sài Gòn đã khép chặt và trận pháo kích vào Tân Sơn Nhất như tuyên bố rằng giờ đây mọi thương thảo là không còn giá trị thì người Pháp vẫn ngoan cố vận động. Theo Nguyễn Hữu Thái đến tận sáng 30/4 người Pháp vẫn chưa từ bỏ ý định của mình mà vẫn còn khuyên tướng Minh cầu viện ngoại bang để duy trì miền Nam.
Ông Thái kể: “Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay”. Nhưng Dương Văn Minh trả lời thẳng thừng rằng trong đời ông ta đã làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ và bây giờ ông không muốn làm tay sai cho một nước nào nữa.
Như thế, trong 10 ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, trước diễn biến tất yếu của lịch sử, vẫn còn nhiều thế lực ngoại bang thèm muốn miền Nam. Có nước lại còn buồn bực vì Việt Nam đã thống nhất.
Trong hoàn cảnh đó, tất nhiên nếu ông Dương Văn Minh giữ đầu óc hiếu chiến hạ lệnh cho quân đội quyết chiến thì cũng không thể xoay ngược bánh xe lịch sử. Có hai nguyên nhân căn bản. Thứ nhất thế và lực của quân Giải phóng là áp đảo không gì cản nổi. Thứ hai chính lực lượng quân VNCH cũng không còn bao nhiêu. Trong số ít ỏi đó cũng chỉ có một số rất ít là có đầu óc hiếu chiến và sẵn sàng tử chiến còn phần lớn đã rã ngũ để về lo cho gia đình mình. Tuy nhiên, ý nghĩa trong quyết định đầu hàng của ông Minh là giúp cho máu của người Việt Nam bớt đổ như cách nói của tướng Nguyễn Hữu Hạnh là “Không nên để đổ máu ở giờ thứ 25”.

2 trong 10 trận đánh “rung chuyển thế kỷ” ở Việt Nam

(Kiến Thức) -  Mạng Metatube đã đưa ra danh sách 10 trận đánh có ảnh hưởng sâu đậm nhất tới cục diện thế giới 1 thế kỷ qua, trong đó có 2 trận ở Việt Nam.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam
 Trận Somme diễn ra từ tháng 7-9/1916 trong chiến tranh TG I giữa quân Đức đóng trên tuyến phòng thủ dài 40km dọc sông Somme ở miền bắc nước Pháp với quân Anh – Pháp. Với hơn 1 triệu người thương vong, đây được xem là một trong số những trận đánh đẫm máu nhất lịch sử loài người. Dù quân liên minh không bẻ gãy được phòng tuyến Đức, chiến dịch này đã đặt nền tảng cho những thay đổi lớn lao của cục diện chiến tranh, nên được xem là một trận đánh quan trọng của lịch sử thế giới.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-2
 Cuộc Không chiến Anh Quốc là cuộc đọ sức dai dẳng giữa Đức Quốc Xã và nước Anh từ tháng 7/10/1940 trong chiến tranh TG II. Cuộc chiến do Adolf Hitler phát động nhằm làm suy yếu nước Anh trước khi quân Đức đổ bộ chiếm đóng. Đây là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên được thực hiện hoàn toàn bằng lực lượng không quân trong lịch sử nhân loại, và kết cục thất bại đã thuộc về người Đức. Đây là biến cố đã quyết định vai trò lịch sử của nước Anh trong chiến tranh TG II.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-3
Trận Midway là một trận hải chiến quan trọng trong chiến tranh TG II tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra từ ngày 4-7/6/1942 giữa hạm đội Nhật Bản và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Với sự tham dự của 7 tàu sân bay và 500 máy bay của cả 2 bên, cuộc chiến đã kết thúc với thắng lợi toàn diện của người Mỹ, đánh dấu một bước ngoặt quyết định cho toàn bộ cuộc chiến ở mặt trận Thái Bình Dương.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-4
Trận Stalingrad là một trận đánh lớn trong chiến tranh TG II, diễn ra từ ngày 17/7/1942 – 2/2/1943 giữa Đức Quốc xã và Hồng quân Liên Xô tại thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở Tây Nam nước Nga. Thắng lợi của Liên Xô trong trận đánh là một bước ngoặt quan trọng làm xoay chuyển cục diện của cuộc chiến tranh. Đây cũng là một trong những trận đánh đẫm máu nhất lịch sử, với con số thương vong lên đến hai triệu người. 

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-5
 Diễn ra từ ngày 15-28/9/1950, trận Inchon là một trận đánh có tính quyết định trong Chiến tranh Triều Tiên. Đây là một chiến dịch đổ bộ từ biển vào bờ, chiếm giữ thành phố Incheon và đột phá vành đai Pusan do lực lượng Liên Hiệp Quốc mà thành phần chính là Thủy quân lục chiến Mỹ tiến hành. Sự thành công của chiến dịch đã kết thúc chuỗi chiến thắng của quân đội miền Bắc Triều Tiên và mở đầu cuộc tổng phản công của quân Liên Hiệp Quốc. 

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-6
  Trận Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13/3-7/5/1954 tại lòng chảo Mường Thanh, Điện Biên, Lai Châu, là cuộc đối đầu giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và đội quân của thực dân Pháp. Thắng lợi của người Việt Nam trong trận chiến này đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhân loại: Lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh bại đội quân của một cường quốc châu Âu. Các sử gia quốc tế nhận định biến cố này đã chấm dứt hơn 4 thế kỷ thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên thế giới.


2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-7
 Chiến tranh 6 ngày là cuộc chiến giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập gồm Ai Cập, Jordan, và Syria từ ngày 5-10/6/1967. Cuộc chiến bắt đầu khi quân Israel đánh phủ đầu quân Ai Cập do lo sợ bị nước này tấn công. Jordan và Syria sau đó đã tham chiến với tư cách đồng minh của Ai Cập. Sau cuộc chiến, Israel đã giành được quyền kiểm soát Đông Jerusalem, dải Gaza, bán đảo Sinai, Bờ Tây, và cao nguyên Golan. Kết quả của cuộc chiến này ảnh hưởng đến địa thế chính trị của khu vực này cho đến ngày nay.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-8
 Diễn ra từ ngày 26-30/4/1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn (Chiến dịch Hồ Chí Minh) là chiến dịch cuối cùng trong chiến tranh Việt Nam, dẫn đến việc chấm dứt hoàn toàn sự chia cắt hai miền Nam - Bắc, đưa Việt Nam đến sự thống nhất và độc lập sau hơn 100 năm bị nước ngoài chiếm đóng, chia cắt. Trên phương diện quốc tế, chiến dịch này đã kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài và đẫm máu nhất của thế giới từ nửa sau TK 20, giáng một đòn mạnh mẽ vào tham vọng đế quốc của người Mỹ. 

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-9
 Cuộc bao vây Sarajevo (4/1992-2/1996) là một sự kiện đẫm máu trong cuộc nội chiến Nam Tư (cũ). Lực lượng Serbia đã bao vây thành phố Sarajevo - thủ phủ của Bosnia và Herzegovina trong gần 4 năm, kéo theo cái chết của 10.000 người. Đây là một biến cố bi thảm mà trước đó nhiều người không thể hình dung sẽ xảy ra giữa lòng châu Âu thời hiện đại. Biến cố này cũng góp phần đến cuộc chiến tranh do NATO tiến hành ở Liên bang Nam Tư năm 1999.

2 trong 10 tran danh “rung chuyen the ky” o Viet Nam-Hinh-10
 Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần 3 là cuộc chiến do lực lượng Mỹ - Anh tiến hành ở Iraq từ ngày 20/3-1/5/2003, với lý do ngăn chặn vũ khí hủy diệt. Quân đội Iraq đã thất bại hoàn toàn, thủ đô Bagdad bị chiếm đóng ngày 9/4 /2003 và Tổng thống Saddam Hussein bị bắt ngày 13/12/2003. Cuộc chiến đã biến đất nước Iraq hùng mạnh một thời trở thành đống đổ nát và hỗn loạn, trong khi các loại vũ khí hủy diệt không bao giờ được tìm thấy. Tình trạng rối ren của Iraq vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay.

Ảnh quân giải phóng VN khiến phương Tây bừng tỉnh

Bức ảnh các chiến sĩ Việt Nam xuất hiện trên bìa Tạp chí Life, ngày 16/2/1968 là một sự kiện chấn động phương Tây.

Kèm theo đó là phóng sự ảnh: “Một ngày đặc biệt ở Huế: Đối phương cho tôi chụp ảnh”.

Ảnh hiếm: Nỗi đau của Hiroshima sau thảm họa hạt nhân

(Kiến Thức) - Tháng 8/1945, Mỹ thả quả bom nguyên tử “Little Boy” xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản, gây thương vong lớn và ảnh hưởng đến cuộc sống người dân về sau.

Sự kiện Mỹ thả hai quả bom nguyên tử“Fat Man” và “Little Boy” xuống thành phố Nagasaki và Hiroshima đã khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng, trong đó có cả trẻ em. Hàng ngàn người khác bị ảnh hưởng của bức xạ, bị bỏng nặng khiến một số người tử vong sau đó. Trong ảnh là thành phố Hiroshima năm 1947 - hai năm sau khi bị ném bom hạt nhân. Các công trình, nhà ở... vẫn còn dấu ấn của vụ nổ bom hạt nhân.
 Sự kiện Mỹ thả hai quả bom nguyên tử“Fat Man” và “Little Boy” xuống thành phố Nagasaki và Hiroshima đã khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng, trong đó có cả trẻ em. Hàng ngàn người khác bị ảnh hưởng của bức xạ, bị bỏng nặng khiến một số người tử vong sau đó. Trong ảnh là thành phố Hiroshima năm 1947 - hai năm sau khi bị ném bom hạt nhân. Các công trình, nhà ở... vẫn còn dấu ấn của vụ nổ bom hạt nhân.

Tin mới