Quân đội Nga “hắt hủi” súng trường AK-12

(Kiến Thức) - Bộ Quốc phòng Nga đã không cho phép khẩu súng trường AK-12 tham gia thử nghiệm quốc gia trong chương trình thiết kế Ratnik.

Theo tờ Izvestia, nhãn hiệu vũ khí nổi tiếng Kalashnikov xem ra đang “rời khỏi” Quân đội Nga. Bộ Quốc phòng đã không cho sản phẩm mới của Tập đoàn Izhmash-Kalashnikov, súng trường tiến công thế hệ mới AK-12 được nghiên cứu chế tạo trong khuôn khổ tạo ra bộ quân trang chiến đấu Ratnik tham gia thử nghiệm cấp quốc gia.
“AK-12 và các sản phẩm khác dựa vào nó đã không qua được thử nghiệm sơ bộ và hoàn toàn không xin dự thử nghiệm cấp quốc gia. Thay cho chúng, để thử nghiệm cấp quốc gia bộ tổng hợp trang bị chiến đấu Ratnik đã chọn thiết kế của nhà máy mang tên Degtyarev”, đại diện Bộ tư lệnh Lục quân Nga cho biết.
Bắn thử nghiệm súng trường tiến công AK-12.
 Bắn thử nghiệm súng trường tiến công AK-12.
Tổng công trình sư nhà máy mang tên Degtyarev (thành phố Kovrov, tỉnh Vladimir) Vladimir Gromov cho biết, đây là nói về vũ khí bộ binh mới trên cơ sở tiểu liên AEK-971, được nghiên cứu chế tạo trong những năm 1980. Đặc điểm của nó là hệ thống cân bằng tự động, khi sự giật do phát bắn được bù trừ bằng một cơ cấu đặc biệt chuyên dùng - cái cân bằng di chuyển ngược chiều với cụm khoá nòng.
“Các thử nghiệm sơ bộ đã được tiến hành với 5 sản phẩm gồm 2 sùng trường tiến công, 2 súng máy và súng trường bắn tỉa. Cả 5 khẩu đều được phép thử nghiệm cấp quốc gia. Các thử nghiệm này sẽ kết thúc trước cuối năm nay”, ông Gromov nói.
Thành viên Uỷ ban thử nghiệm đại diện cho Lục quân cho biết, thiết kế súng trường tiến công của nhà máy ở Kovrov đã cho độ chụm và độ chính xác bắn tốt hơn, kể cả khi bắn loạt từ những tư thế không ổn định. Trong khi đó các mẫu do Izhmash (nay là tập đoàn Kalashnikov) đã không đáp ứng được yêu cầu của các quân nhân cả về độ tin cậy, cả về độ chính xác, cả về công thái học (sự thuận tiện khi sử dụng theo khoa học về lao động).
Quân đội Nga hài lòng hơn với khẩu súng trường tiến công thiết kế dựa trên khẩu AEK-971 (trong ảnh) của nhà máy Degtyarev.
 Quân đội Nga hài lòng hơn với khẩu súng trường tiến công thiết kế dựa trên khẩu AEK-971 (trong ảnh) của nhà máy Degtyarev.
“Tập đoàn Kalashnikov có gần 1 tháng để khắc phục nhược điểm đã phát hiện khi thử sơ bộ, và đưa ra cho chúng tôi mẫu mới đã khắc phục hết nhược điểm. Nếu như mẫu này cho các tính năng cần thiết, chúng tôi sẽ cho phép nó tham gia thử nghiệm cấp quốc gia, tuy nhiên xác suất của điều này thấp. Yêu cầu của chúng tôi đã được những người ở Izhevsk biết từ hai năm trước, vậy mà họ đã không thể tạo ra vũ khí đáp ứng những yêu cầu đó, tôi nghi ngờ là họ sẽ có thể làm được điều này trong một tháng”, đại diện Bộ tư lệnh Lục quân cho biết thêm.
Ở Tập đoàn Kalashnikov, người đại diện cho biết là không rời cuộc đấu giành đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng. Giám đốc chi nhánh ở Moscow của tập đoàn ông Oleg Chikirev, từng là chỉ huy Tổng cục Pháo binh - Tên lửa GRAU (giai đoạn 2007-2009) thuộc Bộ Quốc phòng và bị cách chức sau vụ nổ đạn dược ở Uliyanovsk tuyên bố, AK-12 sẽ tham dự thử nghiệm cấp quốc gia bằng kinh phí của Tập đoàn Kalashnikov.
“Đã có quyết định, AK-12 sẽ tham gia thử nghiệm cấp quốc gia bằng tiền ngân sách, còn Izhev bằng tiền túi của xí nghiệp. Khẩu súng của chúng tôi được tham dự thử nghiệm cấp quốc gia. Đúng là phải hoàn thiện thêm (một số phần tử) để đáp ứng mọi yêu cầu”, Chikirev nói.
Đáp lại, phía đại diện Bộ tư lệnh Lục quân cho biết thêm rằng, thử nghiệm cấp quốc gia là thử nghiệm bằng tiền của nhà nước.
“Một khi nhà nước không muốn chi tiền cho thử nghiệm, thì có nghĩa là khẩu súng này không cần cho nhà nước. Còn không ai cấm (Tập đoàn Kalashnikov) hoàn thiện thêm. Bất luận như thế nào, quyết định cuối cùng về mua số lượng lớn sẽ được thông qua năm 2014 sau khi thử nghiệm cấp quốc gia và sử dụng thử ở đơn vị”, ông này nói.
Ông này nói thêm, là để thử ở đơn vị sẽ mua mấy trăm mẫu súng trường, súng máy và súng trường bắn tỉa mới cho quân đội. Đồng thời ông không loại trừ là AK-12 cũng sẽ được “mang ra bắn thử”.
Có khả năng lớn, khẩu AK-12 sẽ không được Quân đội Nga chấp thuận và như vậy dù đã đổi tên gọi, đã cải tổ nhưng Tập đoàn Kalashnikov sẽ khó tránh khỏi những khó khăn lớn tới đây.
Có khả năng lớn, khẩu AK-12 sẽ không được Quân đội Nga chấp thuận và như vậy dù đã đổi tên gọi, đã cải tổ nhưng Tập đoàn Kalashnikov sẽ khó tránh khỏi những khó khăn lớn tới đây.
Thật trớ trêu, mới một tuần trước, bộ trang bị mới đã được trình diễn cho Tổng thống Vladimir Putin ở Izhevsk trong lễ khai trương Tập đoàn vũ khí Kalashnikov mới trên cơ sở Izhmash. Bây giờ tập đoàn mới thành lập sẽ phải tìm thị trường tiêu thụ.
Giáo sư Học viện Khoa học Quân sự Victor Korablin giải thích rằng, là sẽ có thể giới thiệu AK-12 ra thị trường nước ngoài, mà khối lượng mua bán ở đó là hàng trăm ngàn khẩu.
“Súng trường tiến công là vũ khí cơ bản trong các quân đội trên thế giới, vì vậy tất cả các nhà sản xuất vũ khí đều cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ nó. Ngày nay, tất nhiên, không ai nói đến khối lượng hàng triệu khẩu, nhưng hàng chục nghìn khẩu thì hoàn toàn có thể tìm thấy người mua. Tuy nhiên không được quên, là việc bán mẫu vũ khí gì ra nước ngoài phải được giải quyết ở cấp nhà nước”, Korablin giải thích.
Tổng biên tập Tạp chí chuyên ngành Arsenal Victor Murakhovski cho biết, tiểu liên Kovrov chưa được sản xuất hàng loạt, vì vậy nhà máy mang tên Degtyarev sẽ phải hiện đại hoá sản xuất một cách cơ bản.
“Nói chung nhà máy Kovrov là xí nghiệp tư nhân. Nó không nằm trong tập đoàn nào cả. Và sản phẩm quân sự của nó, theo những dữ liệu gần đây nhất, chiếm 12-15% tổng khối lượng sản xuất. Vì vậy, nếu sẽ có đặt hàng lớn đối với các khẩu súng này, họ sẽ phải mở rộng sản xuất”, Murakhovski nhận định.
Trong khi đó, ông Vladimir Gromov nói rằng, ban lãnh đạo nhà máy tính đến sự hỗ trợ của nhà nước trong việc tổ chức dây chuyền sản xuất hàng loạt.
“Chúng ta có nhiều kinh nghiệm tổ chức sản xuất hàng loạt, chúng ta sản xuất tất cả súng máy ở đất nước này. Trong mọi trường hợp, để tổ chức sản xuất hàng loạt vũ khí mới sẽ cần có quyết định của Uỷ ban Công nghiệp quốc phòng trực thuộc chính phủ Liên bang Nga, Bộ Công thương và Bộ Quốc phòng. Phụ thuộc vào việc quân đội cần bao nhiêu súng sẽ biết được cần những máy công cụ gì để sản xuất chúng, và như vậy sẽ biết được giá thành của sản phẩm”, ông này nói.
Ông này nói thêm, là nhà máy mang tên Degtyarev định mua máy công cụ nước ngoài mới để thành lập dây chuyền sản xuất tiểu liên mới. “Thực tế không có kho máy công cụ trong nước. Chưa bao giờ chúng tôi dùng thiết bị tồi và biết rõ cần mua gì ở đâu để tổ chức sản xuất hàng loạt”.

Infographic: Các đời súng trường tiến công AK

Để tải ảnh kích thước lớn, vui lòng nhấp vào đây và sử dụng chức năng zoom.

“Kho” súng tiểu liên đa dạng của Việt Nam

Trong ảnh là súng tiểu liên MAS-38 do nhà máy vũ khí St Etience của Pháp sản xuất từ năm 1935, chính thức đưa vào trang bị từ 1938. MAS-38 được quân đội viễn chinh Pháp sử dụng phổ biến với số lượng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương. Hàng ngàn khẩu bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu và được sử dụng trong chiến đấu dưới cái tên “tiểu liên Mát”. MAS-38 dùng cỡ đạn 7,62x20mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50-100m.
Trong ảnh là súng tiểu liên MAS-38 do nhà máy vũ khí St Etience của Pháp sản xuất từ năm 1935, chính thức đưa vào trang bị từ 1938. MAS-38 được quân đội viễn chinh Pháp sử dụng phổ biến với số lượng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương. Hàng ngàn khẩu bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu và được sử dụng trong chiến đấu dưới cái tên “tiểu liên Mát”. MAS-38 dùng cỡ đạn 7,62x20mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50-100m.

Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội chủ lực lúc đó.
Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội chủ lực lúc đó.

Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, MAT-49 tiếp tục được các đơn vị Quân giải phóng miền Nam và dân quân du kích sử dụng với số lượng lớn. Năm 1962, quân giới Việt Nam thực hiện cải biên MAT-49, thay nòng súng nguyên bản bằng nòng tiểu liên K50, thay đầu ngắm và cải tiến băng đạn để lắp đạn K50. Trong 2 năm 1962-1963, trên 2.000 khẩu MAT-49 được cải tiến và đưa vào chi viện cho miền Nam.
Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, MAT-49 tiếp tục được các đơn vị Quân giải phóng miền Nam và dân quân du kích sử dụng với số lượng lớn. Năm 1962, quân giới Việt Nam thực hiện cải biên MAT-49, thay nòng súng nguyên bản bằng nòng tiểu liên K50, thay đầu ngắm và cải tiến băng đạn để lắp đạn K50. Trong 2 năm 1962-1963, trên 2.000 khẩu MAT-49 được cải tiến và đưa vào chi viện cho miền Nam.

Thông số MAT-49 nguyên bản/MAT-49 cải tiến gồm: cỡ đạn 9x19mm/7,62x25mm (hộp tiếp đạn 32 viên); tốc độ bắn 600/900 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 150m.
Thông số MAT-49 nguyên bản/MAT-49 cải tiến gồm: cỡ đạn 9x19mm/7,62x25mm (hộp tiếp đạn 32 viên); tốc độ bắn 600/900 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 150m.

Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm 1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan, Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên), tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm 1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan, Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên), tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Tiểu liên Thompson do nhà thiết kế J.T. Thompson phát triển từ trong Chiến tranh thế giới thứ 1 và trang bị cho Quân đội Mỹ sử dụng rộng rãi trong nhiều năm. Sau này, chúng được Quân đội Pháp sử dụng nhiều trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ đội ta thu giữ được hàng nghìn khẩu loại này và trang bị để đánh Pháp. Bên cạnh những biến thể của Mỹ, Việt Nam còn sử dụng biến thể do Trung Quốc chế tạo và một số ít do các xưởng quân giới tự sản xuất.
Tiểu liên Thompson do nhà thiết kế J.T. Thompson phát triển từ trong Chiến tranh thế giới thứ 1 và trang bị cho Quân đội Mỹ sử dụng rộng rãi trong nhiều năm. Sau này, chúng được Quân đội Pháp sử dụng nhiều trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ đội ta thu giữ được hàng nghìn khẩu loại này và trang bị để đánh Pháp. Bên cạnh những biến thể của Mỹ, Việt Nam còn sử dụng biến thể do Trung Quốc chế tạo và một số ít do các xưởng quân giới tự sản xuất.

Thông số biến thể Thompson (M1921/M1928/M1) gồm: dùng cỡ đạn 11,23x23mm (hộp tiếp đạn 20/30/50/100 viên cho biến thể M1921/M1928 hoặc 20/30 viên cho M1); tốc độ bắn 1.000/700/700 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 100-150m.
Thông số biến thể Thompson (M1921/M1928/M1) gồm: dùng cỡ đạn 11,23x23mm (hộp tiếp đạn 20/30/50/100 viên cho biến thể M1921/M1928 hoặc 20/30 viên cho M1); tốc độ bắn 1.000/700/700 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 100-150m.

Tiểu liên M3 được Mỹ nghiên cứu phát triển từ đầu năm 1941 với ý định thiết kế một loại súng đơn giản, rẻ tiền và dễ sản xuất hơn nhằm thay thế cho tiểu liên Thompson. Trong kháng chiến chống Pháp, ta thu được một số lượng không nhỏ tiểu liên M3, cùng với đó là một số biến thể do Trung Quốc “sao chép”.
Tiểu liên M3 được Mỹ nghiên cứu phát triển từ đầu năm 1941 với ý định thiết kế một loại súng đơn giản, rẻ tiền và dễ sản xuất hơn nhằm thay thế cho tiểu liên Thompson. Trong kháng chiến chống Pháp, ta thu được một số lượng không nhỏ tiểu liên M3, cùng với đó là một số biến thể do Trung Quốc “sao chép”.

Đặc biệt, một số biến thể kiểu 37 được quân giới Việt Nam cải tiến gắn thêm nòng giảm thanh để trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động và thường được biết đến dưới cái tên “tiểu liên Mã Lai”. Loại tiểu liên M3 dùng đạn 11,23x23mm (hoặc 9x19mm với một số biến thể), hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 450 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50m.
Đặc biệt, một số biến thể kiểu 37 được quân giới Việt Nam cải tiến gắn thêm nòng giảm thanh để trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động và thường được biết đến dưới cái tên “tiểu liên Mã Lai”. Loại tiểu liên M3 dùng đạn 11,23x23mm (hoặc 9x19mm với một số biến thể), hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 450 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50m.

Tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như kiểu 1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến tranh Việt Nam, loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị biệt kích của Pháp, Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Một số ít đã bị quân dân Việt Nam tịch thu trong chiến đấu và sử dụng lại. Madsen dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút (hoặc 550 phát/phút với biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.
Tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như kiểu 1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến tranh Việt Nam, loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị biệt kích của Pháp, Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Một số ít đã bị quân dân Việt Nam tịch thu trong chiến đấu và sử dụng lại. Madsen dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút (hoặc 550 phát/phút với biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.

Tiểu liên PPSh-41 do Liên Xô phát triển từ năm 1940 và sản xuất hàng loạt từ năm 1942. Trong 5 năm, trên 5 triệu khẩu PPSh-41 được sản xuất và viện trợ rộng rãi cho các quốc gia đồng minh. Từ năm 1951, Việt Nam tiếp nhận những khẩu PPSh-41 đầu tiên là phiên bản kiểu 50 do Trung Quốc sản xuất và loại súng này nhanh chóng trở thành một trong những kiểu tiểu liên chính của bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp dưới tên gọi K50.
Tiểu liên PPSh-41 do Liên Xô phát triển từ năm 1940 và sản xuất hàng loạt từ năm 1942. Trong 5 năm, trên 5 triệu khẩu PPSh-41 được sản xuất và viện trợ rộng rãi cho các quốc gia đồng minh. Từ năm 1951, Việt Nam tiếp nhận những khẩu PPSh-41 đầu tiên là phiên bản kiểu 50 do Trung Quốc sản xuất và loại súng này nhanh chóng trở thành một trong những kiểu tiểu liên chính của bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp dưới tên gọi K50.

Tiểu liên K50 được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, sau đó còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, được các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.
Tiểu liên K50 được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, sau đó còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, được các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.

Đặc biệt, đầu năm 1962, để phục vụ yêu cầu giữ bí mật nguồn cung cấp vũ khí cho miền Nam, quân giới Việt Nam thay vỏ bọc mới, thay báng gỗ bằng báng rút bằng thép để cải tiến cho K50 có hình dạng tương tự tiểu liên MAT-49 của Pháp. Tính đến năm 1968, trên 10.000 khẩu K50 được cải tiến (thường được phương Tây biết đến dưới cái tên K50M) và đưa vào chi viện cho miền Nam. Súng PPSh-41/K50 dùng cỡ đạn 7,62x25mm, tốc độ bắn 900/700 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-250m.
Đặc biệt, đầu năm 1962, để phục vụ yêu cầu giữ bí mật nguồn cung cấp vũ khí cho miền Nam, quân giới Việt Nam thay vỏ bọc mới, thay báng gỗ bằng báng rút bằng thép để cải tiến cho K50 có hình dạng tương tự tiểu liên MAT-49 của Pháp. Tính đến năm 1968, trên 10.000 khẩu K50 được cải tiến (thường được phương Tây biết đến dưới cái tên K50M) và đưa vào chi viện cho miền Nam. Súng PPSh-41/K50 dùng cỡ đạn 7,62x25mm, tốc độ bắn 900/700 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-250m.

Tiểu liên PPS-43 do Liên Xô phát triển từ năm 1942 nhằm đáp ứng yêu cầu về một loại tiểu liên gọn nhẹ, rẻ tiền, dễ chế tạo trang bị cho các đơn vị xe tăng, lính dù và trinh sát của Liên Xô. Trong thời gian 1943-1946, trên 2 triệu khẩu được chế tạo, trang bị cho Hồng quân cùng nhiều quốc gia đồng minh của Liên Xô.
Tiểu liên PPS-43 do Liên Xô phát triển từ năm 1942 nhằm đáp ứng yêu cầu về một loại tiểu liên gọn nhẹ, rẻ tiền, dễ chế tạo trang bị cho các đơn vị xe tăng, lính dù và trinh sát của Liên Xô. Trong thời gian 1943-1946, trên 2 triệu khẩu được chế tạo, trang bị cho Hồng quân cùng nhiều quốc gia đồng minh của Liên Xô.

Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn PPS-43 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đưa vào sử dụng phổ biến trong giai đoạn trước 1967 dưới tên gọi K43. Loại súng này còn được các lực lượng vũ trang địa phương sử dụng trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm (hộp tiếp đạn 35 viên), tốc độ bắn 500-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 200m.
Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn PPS-43 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đưa vào sử dụng phổ biến trong giai đoạn trước 1967 dưới tên gọi K43. Loại súng này còn được các lực lượng vũ trang địa phương sử dụng trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm (hộp tiếp đạn 35 viên), tốc độ bắn 500-600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 200m.

Tiểu liên MP-38/40 do Đức nghiên cứu phát triển từ những năm 1930 để trang bị cho quân đội nước này dùng phổ biến trong Chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân Pháp sử dụng số lượng lớn tiểu liên MP-38/40. Quân dân Việt Nam thu được nhiều khẩu và sử dụng lại trong chiến đấu cho đến tận thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ. Súng dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 500 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100m.
Tiểu liên MP-38/40 do Đức nghiên cứu phát triển từ những năm 1930 để trang bị cho quân đội nước này dùng phổ biến trong Chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân Pháp sử dụng số lượng lớn tiểu liên MP-38/40. Quân dân Việt Nam thu được nhiều khẩu và sử dụng lại trong chiến đấu cho đến tận thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ. Súng dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 500 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100m.

Tiểu liêu SA25 và SA26 do Tiệp Khắc phát triển sau Chiến tranh thế giới 2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số phiên bản báng gập nhưng loại súng này xuất hiện và được sử dụng không nhiều.
Tiểu liêu SA25 và SA26 do Tiệp Khắc phát triển sau Chiến tranh thế giới 2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số phiên bản báng gập nhưng loại súng này xuất hiện và được sử dụng không nhiều.

Thông số kỹ thuật tiểu liên SA25/SA26 gồm: dùng cỡ đạn 9x19/7,62x25mm; hộp tiếp đạn 24-40 viên đối với SA25 và 32 viên với SA26; tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-200m.
Thông số kỹ thuật tiểu liên SA25/SA26 gồm: dùng cỡ đạn 9x19/7,62x25mm; hộp tiếp đạn 24-40 viên đối với SA25 và 32 viên với SA26; tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-200m.

Tiểu liên Skorpion kiểu 1961 do Tiệp Khắc nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số tiểu liên Skorpion và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công biệt động dưới tên gọi K61. Súng dùng cỡ đạn 7,62x17mm (hộp tiếp đạn 10-20 viên), tốc độ bắn 850 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 25-50m.
Tiểu liên Skorpion kiểu 1961 do Tiệp Khắc nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện trợ một số tiểu liên Skorpion và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công biệt động dưới tên gọi K61. Súng dùng cỡ đạn 7,62x17mm (hộp tiếp đạn 10-20 viên), tốc độ bắn 850 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 25-50m.

Tiểu liên kiểu 63 hay PM-63 do Ba Lan phát triển từ những năm 1950-1960. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Ba Lan viện trợ một số tiểu liên PM-63 và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động dưới tên gọi P63. Súng dùng cỡ đạn 9x18mm, hộp tiếp đạn 15-25 viên, tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-150m.
Tiểu liên kiểu 63 hay PM-63 do Ba Lan phát triển từ những năm 1950-1960. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Ba Lan viện trợ một số tiểu liên PM-63 và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động dưới tên gọi P63. Súng dùng cỡ đạn 9x18mm, hộp tiếp đạn 15-25 viên, tốc độ bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-150m.

Tiểu liên Type 64 do Trung Quốc phát triển dành cho lực lượng trinh sát, biệt kích. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận một số lượng nhỏ Type 64 trang bị cho lực lượng công an vũ trang dưới tên gọi K64. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm, hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 1.300 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Type 64 do Trung Quốc phát triển dành cho lực lượng trinh sát, biệt kích. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận một số lượng nhỏ Type 64 trang bị cho lực lượng công an vũ trang dưới tên gọi K64. Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm, hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 1.300 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.

Tin mới