"Hồi ấy, tôi 25 tuổi, anh Ngọc 27 tuổi. Sau này, tôi đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng, tôi đã gặp may khi lấy được anh ấy. Khi chồng tôi còn sống, tôi đã nói lên điều này với anh bởi tấm lòng, sự hiểu biết và sự hy sinh mà anh ấy dành cho mình. Yêu và lấy nghệ sĩ, anh ấy phải đối diện với nhiều điều ra tiếng vào, kể cả những đồn đại trong giới nghệ sĩ. Nhiều người hỏi anh, có ghen không? Ai mà không ghen, nhưng đã xác định vợ là nghệ sĩ rồi mà. Tôi đã được gặp một người chồng bao dung, đức độ và thương vợ hết lòng", NSND Trà Giang chia sẻ.
Tôi đã lên kế hoạch phỏng vấn Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang từ hơn một năm trước, song vì nhiều lý do những cuộc hẹn không thành. Những món quà Hà Nội tới lớp học vẽ của bà, đó là lạc rang húng lìu bà Vân ở 76 Bà Triệu, trà Thái Nguyên của cụ bà trên đường Trần Nhân Tông và ômai quất hồng bì Vạn Lợi. Đó là ba đặc sản Hà thành khiến Trà Giang thích thú nhất.
Trở lại Sài Gòn dịp này, chúng tôi gặp nhau trong nước mắt khi cha của bà qua đời. NSND Trà Giang là con gái của NSƯT Nguyễn Văn Khánh. Theo cha ra Bắc tập kết, Trà Giang đã từng lên sân khấu biểu diễn. Bà đã có ý định thi tuyển diễn viên múa và cải lương. Nhưng sau này, Điện ảnh đã chọn Trà Giang và cho bà nhiều vai diễn để đời. Tôi gom nhặt những câu chuyện để tặng bạn đọc bài viết này, cũng là cách tri ân với người phụ nữ mà tôi rất kính trọng trong đời làm báo của mình.
- Cái tên Trà Giang đã có từ khi nào, thưa bà?
- Cái tên này đã có từ lúc tôi sinh ra vào năm 1942. Quê ba tôi ở Quảng Ngãi có con sông Trà Khúc. Ba lấy mẹ là người Phan Thiết. Tôi sinh ra ở Phan Thiết và cả 6 anh chị em tôi đều được ba mẹ đặt tên về quê hương Quảng Ngãi. Anh lớn là Ấn Sơn (núi Thiên Ấn), rồi đến Trà Giang, Bút Sơn, Thạch Bích… Tình yêu quê hương của ba đã truyền lửa cho chúng tôi luôn hướng về quê hương mình.
- Xem lại phim “Chị Tư Hậu”, có cảm giác tuổi 20 của thế hệ hôm nay không chững chạc như thế hệ của bà?
- Không biết có phải tôi già trước tuổi không, nhưng xem lại phim ấy cũng thấy mình già dặn quá. Tôi nhận vai Tư Hậu lúc 20 tuổi. Hồi nhỏ, tôi đã từng theo ba mẹ lên vùng kháng chiến, rất gian khổ, nhìn những trận Tây đưa quân đi càn, bắn giết nhân dân. Cảnh ba tôi đi hoạt động, má tôi bị bắt. Tôi cảm nhận được những điều có trong kịch bản và sống thật với tình cảm nhân vật. Tự tổng kết cuộc đời diễn viên của mình, trong các nhân vật mình đóng, từ vai Kiên trong phim Một ngày đầu thu, vai người phụ nữ công giáo không tiến bộ, rất an phận, ghen khi chồng đi hoạt động Cách mạng, đến vai Tư Hậu, nhân vật của tôi đã tiến lên một bước nữa, tầm nhân vật đã phát triển. Giờ đây khi được xem lại phim Chị Tư Hậu, tôi vẫn rất xúc động vì đạo diễn Phạm Kỳ Nam và anh Khánh Dư đã mất rồi. Bác Ba Du và nhiều người trong phim không còn nữa. Trở về kỷ niệm một thời trẻ của chúng tôi, thấy tự hào và nhớ mãi…
- Là người phụ nữ có đôi mắt to, đen sâu thẳm, diễn bằng nội tâm, trong các phim Ngày lễ thánh, Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, khán giả luôn nhìn thấy trong đôi mắt ấy nỗi đau thương và lòng uất hận, chan chứa cả những khát khao hạnh phúc. Bà có nghĩ rằng, đôi mắt là một lợi thế đặc biệt giúp bà thể hiện thành công các vai diễn của mình?
- Tôi không nghĩ mình có đôi mắt đẹp. Tôi chỉ nghĩ là, trong nghề diễn viên điện ảnh, đôi mắt là quan trọng nhất, thể hiện được tình cảm của nhân vật. Không hiểu sao đôi mắt của tôi nói được những điều khán giả cảm nhận. Tôi luôn trân quí tình cảm nơi người hâm mộ dành cho mình suốt những năm tháng qua.
- Bà là người hạnh phúc và may mắn khi được sống cùng thời với nhân vật. Hãy kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện làm phim đáng nhớ?
- Trong thời kỳ làm phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, chúng tôi đóng phim ở vùng Vĩnh Linh, gặp một đoàn du kích ban ngày ra nghỉ ngơi tập luyện, ban đêm vượt sông tuyến vào Nam chiến đấu. Trong những người tôi gặp để ghi chép cho nhân vật của mình, đó là o Thảo. Cuộc gặp gỡ ghi mãi dấu ấn trong tim tôi để tạo nên thành công cho vai Dịu. Sau này, vào năm 1999, đi Liên hoan Phim ở Huế, tôi và đạo diễn Hải Ninh trở về Gio Linh, Gio Thủy tay cầm ảnh o Thảo trên tay, mong gặp lại bà. Đến trước cơ quan Huyện ủy Gio Linh, mọi người ồ lên khi nhận ra người trong ảnh. Chúng tôi mừng lắm, và theo một đồng chí Huyện ủy lên xe về gia đình và biết được o Thảo đã hy sinh năm 1972. Cuộc gặp gỡ rất cảm động. Tôi và người chị dâu, em trai của o Thảo ôm nhau khóc. Chính tôi cũng không ngờ, khi bộ phim hoàn thành thì o Thảo đã hy sinh ở chiến trường Miền Nam. Những cuộc gặp gỡ như thế cứ làm cho ký ức trào về, hiển hiện những khuôn mặt người rám nắng, hanh hao và phảng phất nỗi buồn chiến tranh hằn lên trên nếp nhăn của họ.
Chúng tôi lấy việc đi thực tế là một hạnh phúc rất lớn. Trước tôi có chị Mai Châu, chị Đức Hoàn đều lên sống với người dân tộc Mèo, và sau đó khi ra trường, chúng tôi nối tiếp các chị. Phim nào chúng tôi cũng đều đi thực tế cả. Phim Lửa rừng lên vùng Ken Đu, vùng giáp ranh với Lào, không có đường ô tô, leo núi và lội suối 3 ngày đi bộ, đến ở với đồng bào, xem phong tục tập quán của đồng bào. Cứ có điều kiện là chúng tôi đi thực tế. Hồi ấy chúng tôi luôn có thái độ làm việc nghiêm túc.
Liên hoan Phim Mátxcơva năm 1973, có một nhà báo Mỹ đến gặp tôi. Tôi rất ngại, ngại họ có thiện chí hay không? Nhà báo nói thấy xấu hổ khi người Mỹ gây đau thương cho dân tộc Việt Nam. Nhà báo hỏi: Trong phim thì như vậy, liệu ngoài đời có như thế không? Tôi trả lời, ở nước tôi, giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Chị Út Tịch còn nói đánh giặc đến khi còn cái lai quần cũng đánh! Tôi mặc bộ áo dài dân tộc. Người phiên dịch không hiểu lai quần là gì. Tôi chỉ gấu quần phía dưới, nữ nhà báo Mỹ cười…
- Suy nghĩ của bà về nền điện ảnh Việt Nam hôm nay?
- Thế hệ diễn viên của tôi gặt hái được một số thành công, cố gắng hết sức của mình để diễn đạt cuộc sống của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Điện ảnh hôm nay, một người, một số người tâm huyết thôi chưa đủ. Hồi đó là cả một tập thể lớn luôn vì một nền điện ảnh dân tộc, vì nhau, trân trọng nhau và luôn quên mình.
Chúng tôi mừng và kỳ vọng nhiều vào các bạn nghệ sĩ trẻ hôm nay, họ sẽ thay thế xứng đáng lớp đàn anh.
- Từ năm 1990, bà không đóng phim nữa và đã từng đứng trên bục giảng. Nhưng chưa được bao lâu, bà nghỉ dạy và chuyển công tác về Viện Tư liệu phim. Vì sao bà không theo nghiệp giảng dạy như ba mình?
- Đó là bi kịch của tôi. Khi về Trường Điện ảnh, máu làm phim còn đeo đẳng. Tôi muốn được đi nhiều hơn và giao du với bạn bè. Tôi không kiên trì trong việc dạy dỗ vì khả năng sư phạm không có, và tôi thấy các em thích đi làm phim hơn và thích trở thành người nổi tiếng hơn là đến lớp trả bài cho thầy và xây dựng các tiểu phẩm. Tự tôi chán mình và bỏ cuộc. Đó là nhược điểm lớn nhất trong đời nghệ sĩ của tôi.
- Những kỷ niệm nào là dấu ấn nhất của bà với ba mình?
- Hồi tập kết ra Bắc cùng gia đình, chính ba tôi đã báo rằng sắp có một đoàn chuyên gia Liên Xô tuyển diễn viên điện ảnh. Tôi nghe lời ông đi thi và cũng rất tự tin khi đóng tiểu phẩm. Thực ra trước đó, mỗi lần ông dàn dựng vở diễn Epghênhi Ônêgin, tôi đã học được rất nhiều từ đọc thơ, diễn kịch và hát. Tiểu phẩm hôm thi tuyển diễn viên của tôi còn nhớ mãi là lấy bàn tay làm gương trang điểm. Ảnh tôi mang đi thi do chính tay ba chụp hình con gái. Ông mong cho tôi theo nghiệp nghệ thuật của cha và mong muốn “con hơn cha là nhà có phúc”. Sau này, khi sinh Bích Trà được 3 tháng, chính ông là người động viên tôi đi Liên hoan phim Quốc tế Matxcơva. Sau Hiệp định Paris được ký kết, cha tôi đã lấy những sợi dây điện Mac Namara nhiều màu tết thành giỏ xách tặng con gái để gửi tặng bạn bè. Lần sang Liên Xô dự Liên hoan phim, tôi đã tặng món quà ấy của ba cho một nhà báo Mỹ. Đó là món quà có ý nghĩa nhất dành tặng cho khán giả của Liên hoan phim và người bên kia chiến tuyến. Tôi hài lòng khi chọn nghề diễn viên không phải mang lại cho mình sự nổi tiếng, mà nghề này đã đưa tôi đến nhiều cuộc đời. Hàng ngày chăm sóc ông mà tôi vẫn ứa nước mắt vì quá thương yêu ba, vì sự nghiệp điện ảnh 40 năm qua của tôi luôn có ông ở đằng sau. Gia đình tôi có Trà Giang, Bích Trà và cháu gái Hồng Anh là nối nghiệp nghệ thuật của ba. Có một lần ông gọi riêng tôi vào phòng và đưa tiền nói mua một sợi dây chuyền thật đẹp để tặng cháu ngoại Bích Trà. Ông yêu nó và mong sự nghiệp của con gái tôi vẫn sẽ tiếp tục tốt đẹp hơn. Bích Trà đã luôn làm ông ngoại hài lòng trong những lần trở về lưu diễn tại Việt Nam.
NSND Trà Giang và con gái Bích Trà.
- Bà có nghĩ mình là người hy sinh cho con gái theo đuổi nghề nghiệp, khi mà Bích Trà cứ muốn học mãi mà chưa về Việt Nam và chưa chịu lấy chồng?
- Có một điều này mà ít ai hiểu được là tôi ở cùng ba mẹ ruột và chăm ông bà đến khi các cụ lần lượt qua đời, mẹ tôi mất lúc 92 tuổi, 2 năm sau bố cũng theo mẹ về với tổ tiên. Bích Trà mỗi năm cũng thu xếp lịch về Việt Nam biểu diễn và ở nhà với tôi khoảng 2 tuần. Có lẽ là hơn 10 năm qua, ít khi tôi hỏi chuyện riêng của con, mặc dù trong lòng vẫn mong tin và lo lắng cho nó.
Tôi sinh được duy nhất một người con gái là Bích Trà, ghép tên đệm của mẹ và cha. Người ta nói sinh con một khó ngoan vì nó được nuông chiều. Tôi nuôi con như bao bà mẹ khác, dạy dỗ con sống khỏe mạnh và thương yêu mọi người, hướng cho con học hành chăm ngoan. May là Bích Trà rất thương yêu bố mẹ và ông bà. 14 tuổi Bích Trà sang Nga học tập, Trà đã viết thư về nhà cảm ơn ba mẹ đã dạy con nhân cách sống. 14 tuổi cháu đã biết nghĩ như thế.