Những bản án kỳ cục của triều Nguyễn

(Kiến Thức) - Trong lịch sử xử án của nước Việt, có lẽ cha con vua Gia Long là những người rất thích xử tội người ta sau khi họ đã chết.

Phạt 100 gậy đánh vào quan tài
Bản án kỳ cục này là do Nguyễn Ánh dành cho tướng Lê Văn Quân. Ông Lê Văn Quân quê ở Định Tường (nay là Tiền Giang), không rõ là sinh vào năm nào chỉ biết là đã theo phò Nguyễn Ánh từ thời trẻ. Trong trận mạc rất dũng mãnh xông pha nên được người đương thời đặt cho biệt hiệu là Dũng Nam Công.
Tuy xông pha trận mạc dũng mãnh nhưng Lê Văn Quân lại hẹp hòi trong cư xử với đồng liêu. Trong số các tướng lãnh cùng theo phò Nguyễn Ánh, Lê Văn Quân tỏ ra khinh thường Võ Tánh vì cho rằng ông này chỉ vì lấy công chúa Nguyễn Thị Ngọc Du mà được tin dùng chứ chẳng tài cán gì.
Định kiến đó đã dẫn đến tai họa cho ông. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết vào năm 1790, khi Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh ra đánh Bình Thuận. Trận đầu, quân của 3 người thắng lớn. Nhân đó Lê Văn Quân tự đề cao công trạng của mình. Bất bình, Võ Tánh khinh Lê Văn Quân ra mặt.
Nhân đà thắng lợi, Lê Văn Quân đánh ra tận Diên Khánh nhưng Nguyễn Văn Thành can ngăn nên ông đóng quân lại Phan Rang chờ thời. Chúa Nguyễn Ánh để Văn Quân ở lại còn Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành được lệnh rút quân về.
Quân hai ông kia vừa đi thì quân Tây Sơn tập kích. Lê Văn Quân không chống được, buộc phải đưa thư cáo cấp. Nhận thư ấy, Nguyễn Văn Thành khuyên Võ Tánh cùng nhau đem quân trở lại, nhưng Võ Tánh quyết không nghe, chỉ một mình Nguyễn Văn Thành trở lại cứu Lê Văn Quân.
Lăng mộ Lê Văn Duyệt ngày nay. Ảnh: Wikipedia.
 Lăng mộ Lê Văn Duyệt ngày nay. Ảnh: Wikipedia.
Sang mùa thu năm đó, Lê Văn Quân lại một lần nữa phải xin quân cứu viện khi bị Tây Sơn đánh mạnh ở Phan Rí. Từ đây ông bắt đầu nhụt chí thấy thua kém mọi người.
Thời gian ấy, quân Xiêm gây hấn ngoài bờ cõi, Nguyễn Ánh cho gọi Lê Văn Quân về để ra mặt biên giới Xiêm. Nhưng Văn Quân dùng dằng không tiến quân mà lại dâng biểu nói: Khi trước ở Bình Thuận, quan quân đến cứu viện khiến giặc phải rút lui, nhưng quan quân phần nhiều làm việc càn rỡ, cướp bóc dân đen, vậy, xin phái người tới xét hỏi để giữ nghiêm quân lệnh.
Ý tứ trong tờ biểu này, Lê Văn Quân muốn nhằm vào Võ Tánh. Nhận biểu, Nguyễn Ánh giận quở rằng : - Việc qua lâu rồi, hà cớ gì cứ phải xét lại để gây thêm phiền nhiễu. Vả lại, triều đình đang có lắm việc phải lo, thế mà không chịu nghĩ đến, toan tính việc nhỏ là sao ?
Đáp lại, Lê Văn Quân bèn cáo bệnh không tiến quân. Nguyễn Ánh bèn sai người đến thay và chia quân lính của Quân cho người khác chỉ huy. Về phần Quân thì bị giao cho đình thần nghị tội.
Các bề tôi bàn phải xử tử nhưng Nguyễn Ánh nghĩ Quân có công lao nên tha chết, chỉ tước hết quan chức. Về nhà, Quân uống thuốc độc tự tử.
Nguyễn Ánh nghe tin vừa tức giận vừa tiếc bèn tới tận nhà thương khóc nhưng đồng thời cũng sai người lấy gậy đánh vào quan tài 100 gậy rồi mới cấp cho 8 người lính làm phu mộ đem an táng.
Những bản án xâm phạm mồ mả
Đến thời vua Minh Mạng, ông vua này có hai lần xử án người chết nữa. Đó là vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Cả hai tội phạm này đều bị xử sau khi đã yên phận dưới mồ.
Điểm tương đồng của cả hai ông này là đều là công thần triều Nguyễn, là những võ tướng đã theo Nguyễn Ánh vào sinh ra tử để lập ra vương triều. Thứ hai là đều bị nhà vua cho triều đình xử lại sau khi đã xuống suối vàng. Kết cục của những lần xử lại này đều là san bằng mồ mả và dựng những tấm bia với nội dung dạng như “gian thần Lê Chất phụng pháp xứ”.
Vụ án Lê Văn Duyệt đã nhiều lần được nói đến, nay xin lược thuật vụ án của Lê Chất. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim viết: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau (Bính Thân, 1836) có quan Lại bộ tả thị lang Lê Bá Tú dâng sớ truy hặc Lê Chất phạm những 16 tội.
Một trong những tội to mà Lê Bá Tú hặc cho Lê Chất là khi điểm binh ở Bắc thành, dám lên tận Ngũ Môn mà ngồi ở giữa, không biết giữ đúng lễ của kẻ bề tôi. Ngoài ra còn nhiều tội trạng khác nữa.
Theo Việt sử giai thoại (tập 8) của Nguyễn Khắc Thuần, Vua Minh Mạng nghe đình thần tâu lên thì dụ rằng: Chất lòng lang dạ sói, nét rất quỷ quái, làm tôi thì bất trung bất chính, xử sự thì đại ác đại gian, việc gì làm cũng sai trái, ai ai biết đến cũng đều phải nghiến răng, tội lỗi nào phải chỉ có mười sáu điều như Lê Bá Tú nêu đâu. 
Trước kia, trẫm nghĩ rằng, Chất cùng Lê Văn Duyệt, dẫu lòng chúng chẳng đáng kẻ làm tôi mà chẳng có ai phụ họa vào thì tất chúng chẳng dám làm điều ác. Vả chăng, chúng là nhất phẩm đại thần, cho nên dẫu có mưu gian mà bá quan cùng trăm họ chưa ai tố cáo thì cũng không nỡ khép vào trọng tội. Lũ chúng đã bị Diêm Vương bắt đi tưởng như thế là lưới trời thưa mà lọt được, và trẫm cũng chẳng thèm hỏi đến. Nay có người truy xét thì công tội đã có triều đình nghị luận, cốt sao tỏ rõ khi sống bọn chúng đã làm điều trái phép…”
Sau cùng, Minh Mạng ra một bản án tương tự như bản án dành cho Lê Văn Duyệt năm trước: “Lê Chất cùng Lê Văn Duyệt dựa nhau làm điều gian manh, tội ác nặng ấy thấm đến tai đến tóc, giá có bổ quan tài của chúng ra mà vằm xác cũng không có gì là quá đáng. Nhưng, Chất và Duyệt tội ác giống nhau mà trước đây đã không bổ quan tài ra mà chém xác Duyệt, thì nắm xương khô của Chất, ta cũng chẳng thèm gia hình làm gì. 
Vậy, sai Bình Phú Tổng đốc là Vũ Xuân Cẩn san bằng mồ mả của Chất rồi dựng tấm bia đá lên đó, khắc lớn mấy chữ gian thần Lê Chất phục pháp xứ (nơi gian thần Lê Chất chịu hình pháp) cốt để răn những kẻ gian tặc cho muôn đời. Vợ Chất là Lê Thị Sa vốn ở cùng chỗ với chồng nên dự biết mưu gian, nếu có đem xử cực hình cũng là phải, nhưng nó chỉ là đàn bà, không thèm chém vội, vậy, tạm cho Lê Thị Sa cùng lũ con của chúng là Cận, Trương và Kỵ đều được giảm xuống tội trảm giam hậu”.
Những bản án vừa nêu là những lần hiếm có trong lịch sử nước ta. Có lẽ khởi đầu từ Gia Long với việc đánh 100 gậy vào quan tài Lê Văn Quân và sau đó là đào lăng mộ triều Tây Sơn lên để trả thù nên tạo ra tiền lệ cho Minh Mạng thi hành những bản án có tính “xâm phạm mồ mả” về sau đối với Lê Văn Duyệt và Lê Chất chăng?

Bí ẩn ngôi mộ thái giám bị Minh Mạng san bằng

Lập nhiều chiến công, tài trí hơn người, Lê Văn Duyệt trở thành vị khai quốc công thần danh vọng bậc nhất triều vua Gia Long. Tuy nhiên, xung quanh nhân vật này còn nhiều góc khuất ít người biết rõ.

Cuộc hành hình có một không hai trong lịch sử VN

(Kiến Thức) - Khi đã mồ yên mả đẹp, mộ Lê Văn Duyệt vẫn bị vua Minh Mạng cho san bằng, dựng bia đá đề: Chỗ hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu tội chết.

Tả quân Quận công Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) là một công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành 2 lần: từ năm 1812 đến năm 1815 (triều vua Gia Long) và từ năm 1820 đến năm 1832 (triều vua Minh Mạng). Thế nhưng điều đáng nói trong cuộc đời của Lê Văn Duyệt chính là bản án mà triều đình đã giáng xuống ngôi mộ của ông.

Mộ song táng tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân.
 Mộ song táng tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân.
Từ khi con nuôi Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt, dù ông đã mất. Năm 1835, sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt ở Đô Sát viện dâng sớ kể tội Lê Văn Duyệt, xin truy đoạt quan chức, vợ con phải giải về Hình bộ xét tội. Minh Mạng dụ cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Lê Văn Duyệt có sáu điều, được vua ưng chuẩn giao đình thần kết án. Án nghị Lê Văn Duyệt có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân. Nhưng trong suốt quá trình làm quan, Lê Văn Duyệt và Minh Mạng đã có nhiều mâu thuẫn.

Kỳ bí giai thoại về tứ kỳ trăng máu

(Kiến Thức) - Khi nguyệt thực toàn phần diễn ra, Mặt trăng sẽ nhuộm đỏ thành màu máu, khiến nhiều người liên tưởng đến Ngày tận thế...

Trong hai ngày từ 14 - 15/4/2014, thế giới sẽ có dịp chứng kiến cảnh tượng đặc biệt, đó là trăng máu. Theo người dân, nguyệt thực cũng chính là mặt trăng máu. Hiện tượng này xảy ra do ánh sáng nảy ra từ bề mặt Mặt trăng bị khúc xạ khi xuyên qua khí quyển trái đất và biến Mặt trăng thành màu đỏ rực.
Trong hai ngày từ 14 - 15/4/2014, thế giới sẽ có dịp chứng kiến cảnh tượng đặc biệt, đó là trăng máu. Theo người dân, nguyệt thực cũng chính là mặt trăng máu. Hiện tượng này xảy ra do ánh sáng nảy ra từ bề mặt Mặt trăng bị khúc xạ khi xuyên qua khí quyển trái đất và biến Mặt trăng thành màu đỏ rực. 
Hiện tượng trăng máu sẽ lần lượt diễn ra vào tháng 10/2014, tháng 4/2015 và tháng 9/2015. Chính vì vậy, nó còn được gọi là tứ kỳ nguyệt thực và thế giới lưu truyền nhiều truyền thuyết về hiện tượng kỳ lạ này.
Hiện tượng trăng máu sẽ lần lượt diễn ra vào tháng 10/2014, tháng 4/2015 và tháng 9/2015. Chính vì vậy, nó còn được gọi là tứ kỳ nguyệt thực và thế giới lưu truyền nhiều truyền thuyết về hiện tượng kỳ lạ này. 
Khi hiện tượng thiên nhiên đặc biệt này sắp diễn ra, Mục sư Hagee - tác giả quyển "Bốn lần trăng máu: Điều gì đó sắp thay đổi" xuất bản năm 2013, dẫn lời ngôn sứ Joel trong Kinh Thánh nhận định: “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm và Mặt trăng nhuốm màu chuyển sang màu máu. Ôi ngày vĩ đại, kinh hoàng trước khi Chúa xuất hiện”.
Khi hiện tượng thiên nhiên đặc biệt này sắp diễn ra, Mục sư Hagee - tác giả quyển "Bốn lần trăng máu: Điều gì đó sắp thay đổi" xuất bản năm 2013, dẫn lời ngôn sứ Joel trong Kinh Thánh nhận định: “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm và Mặt trăng nhuốm màu chuyển sang màu máu. Ôi ngày vĩ đại, kinh hoàng trước khi Chúa xuất hiện”.
Mục sư Hagee cũng nhận định có sự trùng khớp giữa những lần diễn ra tứ kỳ huyết nguyệt trong 500 năm qua. Nó trùng hợp với thời điểm xảy ra một thảm kịch nào đó của người Do Thái hay rơi vào dịp lễ, sự kiện quan trọng. Cụ thể, lần trăng máu diễn ra vào ngày 15/4/2014, 4/4/2015 đều trùng với dịp lễ Vượt qua và 2 kỳ trăng máu khác rơi vào ngày 8/10/2014 và 28/9/2015 sẽ trùng hợp với thời điểm diễn ra lễ Lều tạm.
Mục sư Hagee cũng nhận định có sự trùng khớp giữa những lần diễn ra tứ kỳ huyết nguyệt trong 500 năm qua. Nó trùng hợp với thời điểm xảy ra một thảm kịch nào đó của người Do Thái hay rơi vào dịp lễ, sự kiện quan trọng. Cụ thể, lần trăng máu diễn ra vào ngày 15/4/2014, 4/4/2015 đều trùng với dịp lễ Vượt qua và 2 kỳ trăng máu khác rơi vào ngày 8/10/2014 và 28/9/2015 sẽ trùng hợp với thời điểm diễn ra lễ Lều tạm.
Ông Hagee cho biết: "Đặc biệt, tất cả thời điểm diễn ra tứ kỳ nguyệt thực đều trùng khớp với thời điểm diễn ra một biến cố lớn của người Do Thái có thể kể đến như: Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967, người Do Thái bị trục xuất khỏi lãnh thổ Tây Ban Nha năm 1492. Cũng trong năm này, Columbus phát hiện ra châu Mỹ và nơi đây sau đó trở thành địa điểm sinh sống an toàn của người Do Thái. Mỗi lần xảy ra trăng máu, mọi người có thể thấy sự bắt đầu của bi kịch hay kết thúc chiến thắng của bên nào đó".
Ông Hagee cho biết: "Đặc biệt, tất cả thời điểm diễn ra tứ kỳ nguyệt thực đều trùng khớp với thời điểm diễn ra một biến cố lớn của người Do Thái có thể kể đến như: Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967, người Do Thái bị trục xuất khỏi lãnh thổ Tây Ban Nha năm 1492. Cũng trong năm này, Columbus phát hiện ra châu Mỹ và nơi đây sau đó trở thành địa điểm sinh sống an toàn của người Do Thái. Mỗi lần xảy ra trăng máu, mọi người có thể thấy sự bắt đầu của bi kịch hay kết thúc chiến thắng của bên nào đó".
Truyền thuyết về Mặt trăng máu đã xuất hiện nhiều trong các nền văn minh, tín ngưỡng cổ đại. Trong sách Khải Huyền có ghi lại cảnh tượng diễn ra hiện tượng kỳ bí này: “Khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, tôi thấy một trận động đất khủng khiếp xảy ra, Mặt trời trở nên tối đen như một bao tải làm bằng lông đen, cả Mặt trăng trở nên đỏ như máu”.
Truyền thuyết về Mặt trăng máu đã xuất hiện nhiều trong các nền văn minh, tín ngưỡng cổ đại. Trong sách Khải Huyền có ghi lại cảnh tượng diễn ra hiện tượng kỳ bí này: “Khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, tôi thấy một trận động đất khủng khiếp xảy ra, Mặt trời trở nên tối đen như một bao tải làm bằng lông đen, cả Mặt trăng trở nên đỏ như máu”.
Tiết 1 chương 7 trong “Cựu Ước” của Thánh Kinh cũng đề cập đến hiện tượng trăng máu: “Trước Ngày Tận thế là Mặt trăng đỏ máu…”. Thêm vào đó, hiện tượng tứ kỳ nguyệt thực vô cùng đặc biệt.
Tiết 1 chương 7 trong “Cựu Ước” của Thánh Kinh cũng đề cập đến hiện tượng trăng máu: “Trước Ngày Tận thế là Mặt trăng đỏ máu…”. Thêm vào đó, hiện tượng tứ kỳ nguyệt thực vô cùng đặc biệt.
Mark Biltz - giáo sư Thánh Kinh đã đưa ra lý thuyết cảnh báo về hiện tượng tứ kỳ nguyệt thực hiếm có này. Ông cho rằng từ năm đầu tiên của công nguyên cho tới thời điểm hiện tại, thế giới đã chứng kiến 87 lần tứ kỳ nguyệt thực.
Mark Biltz - giáo sư Thánh Kinh đã đưa ra lý thuyết cảnh báo về hiện tượng tứ kỳ nguyệt thực hiếm có này. Ông cho rằng từ năm đầu tiên của công nguyên cho tới thời điểm hiện tại, thế giới đã chứng kiến 87 lần tứ kỳ nguyệt thực.
Trong đó, 7 lần hiện tượng đặc biệt trên xảy ra đúng vào 2 ngày lễ quan trọng của người Do Thái đó là: lễ Lều Tạm và lễ Vượt Qua.
Trong đó, 7 lần hiện tượng đặc biệt trên xảy ra đúng vào 2 ngày lễ quan trọng của người Do Thái đó là: lễ Lều Tạm và lễ Vượt Qua.

Đọc nhiều nhất

Tin mới