Ngôi mộ đế vương đáng sợ bậc nhất Trung Quốc

Lăng mộ đế vương đầy bí ẩn, 7 người đem quan tài của Hoàng đế nhà Minh về dùng đều lần lượt mất mạng. Những người đụng chạm đến chiếc quan tài ấy cũng đều có kết cục rất thảm khốc.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Nhắc tới những giai thoại khảo cổ nổi tiếng nhất Trung Quốc, giới chuyên gia nước này vẫn không thể quên cuộc khai quật nguy hiểm nhất mà họ từng thực hiện. Đó chính là lần khai quật Định Lăng (lăng mộ) của Hoàng đế Vạn Lịch – vị vua thứ 13 thời nhà Minh.

Giai thoại về địa cung được bảo vệ bởi sông ngầm

Năm 1955, đoàn công tác khảo cổ Định Lăng do Quách Mạt Nhược phụ trách bắt đầu tiến hành khai quật lăng mộ này. Đối với một đội khảo cổ còn non trẻ, đây quả thực là thử thách đầy mạo hiểm.

Định Lăng còn được biết tới với tên đầy đủ là Minh Định Lăng, có niên đại hơn 300 năm trước. nơi an nghỉ của Minh Thần Tông Chu Dực Quân (Hoàng đế Vạn Lịch) khi xưa từng mất tới 6 năm xây dựng và tiêu tốn gần 800 vạn lượng.

Mặc dù sở hữu quy mô không quá lớn so với các lăng mộ đế vương khác, nhưng Định Lăng vẫn được xây dựng hết sức quy củ. Điều này cũng gây ra nhiều trở ngại lớn trong quá trình khai quật của đoàn khảo cổ.

Đội khảo cổ đã mất tới hơn một năm rưỡi mới có thể tìm ra lối vào địa cung. Lối vào ấy lại bị phong tỏa kín bởi một bức tường kim cương cao 8,8 mét, dày 1,6 mét.

Bức tường phong tỏa lối vào địa cung của Hoàng đế Vạn Lịch. (Ảnh: Nguồn Baidu).
Bức tường phong tỏa lối vào địa cung của Hoàng đế Vạn Lịch. (Ảnh: Nguồn Baidu). 

Chưa dừng lại ở đó, khi quá trình khai quật đang tiến hành những bước quan trọng, thì người dân trong vùng lại truyền tai nhau tin đồn.

Trong địa cung của Định Lăng có một con sông. Muốn tìm được quan tài của Hoàng đế thì phải ngồi thuyền nhỏ đi qua con sông có vực sâu vạn trượng và giăng đầy kiếm sắc. Hơn nữa, chỉ có người trùng ngày sinh tháng đẻ với Hoàng đế Vạn Lịch mới có thể đến được nơi có quan tài.

Điều này khiến đội ngũ khảo cổ vô cùng hoang mang. Dù vậy, nhóm của Quách Mạt Nhược đã quyết định bỏ ngoài tai những tin đồn mê tín và kiên trì tiến hành khai quật.

Đoàn khảo cổ của Quách Mạt Nhược đã "đánh liều" tiến hành khai quật. (Ảnh: Nguồn Baidu).
Đoàn khảo cổ của Quách Mạt Nhược đã "đánh liều" tiến hành khai quật. (Ảnh: Nguồn Baidu). 

Lời nguyền quan tài của Hoàng đế khiến nhiều người vong mạng

Sau nhiều tháng trời ròng rã, đội khảo cổ cuối cùng cũng đã tìm đến chủ thất – căn phòng đặt quan tài của Hoàng đế.

Theo lời kể của những người trực tiếp tiến hành khai quật lăng mộ, giữa căn phòng chủ thất có đặt ba chiếc quan tài màu đỏ. Chiếc ở giữa chính là của Hoàng đế Vạn Lịch, hai chiếc cạnh bên là của Hoàng hậu.

Sau khi mở quan tài, đội ngũ khảo cổ vô cùng phấn khởi khi phát hiện ra một lượng lớn trân kỳ dị bảo. Trong số đó, nổi bật nhất chính là chiếc mũ rồng của Hoàng đế, bên trên khảm hơn 120 viên đá quý, 5000 viên trân châu và được chế tác hoàn toàn bằng chỉ vàng.

Thế nhưng, ngành khảo cổ thời bấy giờ vẫn còn có phần lạc hậu. Do điều kiện vật chất có nhiều thiếu thốn, nên một số văn vật phát hiện trong lăng mộ Hoàng đế đã bị hư hỏng nghiêm trọng.

Lối vào Định Lăng - nơi an nghỉ của Hoàng đế Vạn Lịch. (Ảnh: Nguồn Baidu).
 Lối vào Định Lăng - nơi an nghỉ của Hoàng đế Vạn Lịch. (Ảnh: Nguồn Baidu).

Lúc bấy giờ, các nhân viên khảo cổ cho rằng quan tài gỗ của nhà vua không có giá trị nghiên cứu nên đã để lại bên khe núi.

Khi đó, có 7 người dân trong làng nghe được tin này, liền tìm đến tận nơi để lấy quan tài, chia nhau gỗ quý. Lấy được những miếng gỗ quý có niên đại hơn 3 thế kỷ, ai nấy cũng đều rất vui mừng mà không hề biết rằng chính thứ đó sẽ đem lại tai họa cho họ.

Bấy giờ, có người cùng làng nói rằng:

"Đồ của Hoàng đế đâu phải thứ ai cũng dùng được. Nếu không có cái phúc ấy thì e rằng không chịu nổi mà còn mất mạng như chơi…"

Chẳng bao lâu sau, những chuyện kỳ quái cũng bắt đầu xảy ra xung quanh những miếng gỗ ấy.

Một đôi vợ chồng già nhờ người đóng quan tài bằng khối gỗ lim của Hoàng đế, nhưng chưa tới nửa tháng thì cả hai lần lượt qua đời.

Có người nông dân khác đặt miếng gỗ này lên ban thờ, sau đó cả 4 đứa trẻ của gia đình ấy đều mất mạng không rõ nguyên nhân.

Những người từng chia nhau miếng gỗ từ quan tài của Hoàng đế Vạn Lịch cũng liên tục gặp chuyện không may.

Quan tài của Hoàng đế Vạn Lịch bị nghi ngờ là nguyên nhân của nhiều tài nạn bí ẩn xảy ra với những người có liên quan. (Ảnh minh họa).
 Quan tài của Hoàng đế Vạn Lịch bị nghi ngờ là nguyên nhân của nhiều tài nạn bí ẩn xảy ra với những người có liên quan. (Ảnh minh họa).

Càng kỳ quái hơn là, những nhà khảo cổ tham gia khai quật lăng mộ đều gặp phải nhiều chuyện bất thường.

Vợ của Quách Mạt Nhược là Vu Lập Quân treo cổ tự tử trong căn nhà cũ ở Bắc Kinh, hai đứa con trai của ông cũng tự sát mà chết.

Người chỉ huy công tác khai quật Trịnh Chấn Đạc bất ngờ gặp tai nạn máy bay. Người chủ trương khai quật mộ là Ngô Hàm tự sát trong ngục. Nhiếp ảnh gia Lưu Đức An (người mở nắp quan tài Hoàng đế) thắt cổ tự tử.

Dường như, ở vào thời khắc cánh cửa địa cung được mở ra, lời nguyền trong lăng mộ của Hoàng đế Vạn Lịch cũng đã bắt đầu ứng nghiệm. Mặc dù tìm thấy vô số trân kỳ dị bảo, nhưng Định Lăng cũng đã để lại nỗi sợ hãi và ám ảnh cho giới khảo cổ Trung Quốc.

Kể từ đó, việc không chủ động khai quật lăng mộ Hoàng đế đã trở thành "luật bất thành văn" trong ngành khảo cổ nước này.

Đoàn khảo cổ của Quách Mạt Nhược đã "đánh liều" tiến hành khai quật. (Ảnh: Nguồn Baidu).
Đoàn khảo cổ của Quách Mạt Nhược đã "đánh liều" tiến hành khai quật. (Ảnh: Nguồn Baidu).

Chuyện kỳ lạ về lăng mộ cổ giữa lòng Hà Nội

Ít ai biết được rằng, ở sâu trong con phố Tây Sơn, có một khu Lăng mộ của hai cha con họ Hoàng đã tồn tại gần 100 năm nay. 

Chuyen ky la ve lang mo co giua long Ha Noi
Khu lăng mộ của ông Hoàng Cao Khải. 
Khu lăng mộ độc đáo
Theo như một số tài liệu cho biết, khu lăng mộ cổ này là của hai cha con Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu. Ông Hoàng Cao Khải (1850-1933) tên thật là Hoàng Văn Khải, quê làng Đông Thái, thuộc xã Tùng Ảnh, huyện La Sơn (nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 21 (1868).
Ông là nhà văn, nhà sử học và là đại thần dưới triều vua Thành Thái. Được bổ nhiệm làm huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm Tuần phủ Hưng Yên. Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, Hoàng Cao Khải cùng với Nguyễn Thân là hai người được Pháp rất tin dùng. Chính vì thế người đời coi ông là "tội nhân" lịch sử: "Hỏi ai bán nước buôn dân - Ấy Hoàng Cao Khải - Nguyễn Thân một phường".
Năm 1904, khi tỉnh Cầu Đơ đổi tên là Hà Đông, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp Thống sư Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức bộ máy cấp xã ở Bắc Kỳ. Về sau con trai ông là Hoàng Trọng Phu kế nhiệm ông làm Tổng đốc Hà Đông đến năm 1937.
Ông Hoàng Cao Khải về hưu ở ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phường Trung Liệt, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Để chuẩn bị cho hậu sự của mình ông Hoàng Cao Khải đã vời thầy địa lý từ bên Tàu sang chọn đất đặt mộ cho mình. Thầy Tàu đã cắm mảnh đất ở ấp Thái Hà, nằm ở phía Tây gò Đống Đa, là chỗ đặt lăng mộ bây giờ.
Khu lăng mộ được xây dựng năm 1893 với đầy đủ yếu tố phong thủy với một hồ nước nhân tạo phía trước cửa lăng, theo lối lưng tựa núi, mặt nhìn sông. Trước kia, ở phía sau lăng mộ còn có ngọn đồi Nghinh Phong (Đón Gió) cao 10m. Trên đỉnh đồi trước kia có Nghinh Phong Quán, một nơi để nghỉ ngơi và ngoạn cảnh. Từ chân đồi lên Nghinh Phong Quán có một lối đi gồm 133 bậc thang. Hồ nước bây giờ vẫn còn trong ngõ 252 phố Tây Sơn là di tích của cuộc đào bới lấy đất đắp đồi. Nhưng bao năm mưa nắng mài mòn, rồi người ta đắp đất dựng nhà, nên giờ đồi Nghinh Phong chỉ còn thấp lè tè, cao hơn nhà dân một chút.
Lăng Hoàng Cao Khải được xây dựng theo kiểu chữ "Đinh", dài 8m, cao 6m, toàn bộ công trình đều bằng đá cẩm thạch trắng được chạm khắc tinh xảo. Đá xây dựng lăng được chở về từ phủ Quốc Oai (Hà Tây cũ) và qua bàn tay chế tác của các hiệp thợ nổi tiếng quanh vùng núi An Hoạch (huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Các cột, trụ, xà, bẩy, cửa võng, diềm, tường, nền đều bằng đá và được chạm trổ trau chuốt.
Khu lăng mộ có kiến trúc rất độc đáo, nhiều công trình tinh xảo được đánh giá là đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt. Họa tiết chủ yếu được chạm khắc trên đá là hoa sen, lá thông, đầu rồng đặc trưng của thời Nguyễn đầy uy lực. Sự hoàn mỹ và nét tinh xảo trong kiến trúc thể hiện rất rõ ở ngay những đường nét và góc cạnh nhỏ nhất.
Đôi rồng đá ngự trước cửa lăng dù đã bị thời gian xô lệch, hư hại nhiều chỗ nhưng vẫn giữ được được vẻ đẹp uy nghi của một tác phẩm nghệ thuật hiếm có ở đất kinh kỳ.
Bên phải lăng mộ của ông Hoàng Cao Khải, là lăng mộ của con trai, tức Hoàng Trọng Phu. Ông Phu từng du học bên Pháp, có bằng kỹ sư, sau đó về Việt Nam, được nhà Nguyễn giao cho chức Tổng đốc Hà Đông thay cha. Ông Phu cũng xây dựng cho mình một ngôi mộ đá khổng lồ, to hơn mộ cha, to nhất miền Bắc hồi đầu thế kỷ 20. Vợ của ông Phu cũng được chôn cất tại đây.
Khu lăng Hoàng Cao Khải được xếp hạng di tích quốc gia năm 1962. Bộ Văn hóa lúc đó đánh giá: "Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương...". Năm 1945, khi nhà Nguyễn bị lật đổ thì con cháu ông Hoàng Cao Khải cũng lên tàu sang Pháp hết. Khu nghĩa trang nhà họ Hoàng từ đó bị bỏ hoang, lăng mộ đá khổng lồ của ông Khải và ông Phu cũng không có người trông nom, hương khói. Ngoài ra, vì cha con ông Khải đều theo Pháp, nên di tích của hai ông không được người dân tôn trọng, ít được chăm sóc.
Những người sống trong mộ
Theo như một số người dân sống xung quanh khu lăng mộ cho biết, cách đây khoảng 30 năm, khu vực này vẫn còn hoang vu, cây cối rậm rạp, ít người dám vào. Sau nhiều năm phát triển, dân tứ xứ kéo về quây đất dựng nhà trên khu đất chẳng ai quản lý này. Khu nghĩa địa với hàng trăm ngôi mộ của nhà họ Hoàng cũng dần bị cắt xén, thậm chí có mộ còn bị xây nhà đè lên. Cho đến bây giờ vẫn có một số ngôi mộ nằm lọt trong nhà dân mà chỉ những người dân làng sống lâu năm ở đây mới nắm được.
Còn với khu mộ của hai cha con họ Hoàng, ngôi mộ lớn của người con từng bị một gia đình do nợ nần chồng chất nên phải bán nhà rồi chiếm dụng làm chỗ ở. Sau này con cái họ lớn lên, chia ra làm bốn hộ gia đình, tiếp tục sống trong khu mộ bên cạnh những chiếc quách đá khổng lồ.
Cách đây nhiều năm, chính quyền đã giải tỏa các hộ dân nơi đây và có đền bù thỏa đáng, sau đó còn hỗ trợ họ được mua nhà chung cư cho người thu nhập thấp để có thể ổn định cuộc sống. Còn về phần lăng mộ này sau đó được dọn dẹp sạch sẽ để giữ gìn di tích văn hóa. Khu mộ của ông Hoàng Trọng Phu trước đây cũng từng có người ở hàng chục năm, khi đông nhất lên đến 3 hộ gia đình với 12 người. Nay khu mộ này được tận dụng làm nơi khai báo nhân khẩu của địa phương.
Chuyen ky la ve lang mo co giua long Ha Noi-Hinh-2
Chiếc quách đá bên trong khu lăng mộ. 

Điểm danh những lăng mộ tiền tỷ gây sốt ở Việt Nam

(Kiến Thức) - "Thành phố ma An Bằng" (Huế), lăng mộ độc nhất vô nhị trên vùng sa mạc Quảng Bình... là những lăng mộ tiền tỷ gây sốt ở Việt Nam

Diem danh nhung lang mo tien ty gay sot o Viet Nam

1. Lăng mộ hoành tráng cho cả người sống và chết

Nghĩa trang ở làng chài nhỏ tên Hà Úc (xã An Bằng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế) vốn đã nổi tiếng xưa nay với những "cầu kỳ, tinh xảo và xa hoa". Tại Huế, người dân vẫn hay gọi nghĩa trang này với những cái tên như "thành phố của người chết" hay "thành phố ma An Bằng". Ảnh: VTC News. 

Diem danh nhung lang mo tien ty gay sot o Viet Nam-Hinh-2
Những ngôi tại nghĩa trang này được trang trí bởi nghệ thuật "khảm sành sứ" đặc trưng ở Huế với những họa tiết hoa lá và hình rồng. Chi phí xây dựng  cho những ngôi mộ này từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng/ngôi. Ảnh: VTC News.

Lăng mộ đá cổ khổng lồ chơ vơ giữa cánh đồng Hà Nội

(Kiến Thức) - Sau 3 thế kỷ tồn tại, khu lăng mộ đá cổ độc đáo này đã xuống cấp nghiêm trọng và ngập chìm trong cỏ dại...  

Lang mo da co khong lo cho vo giua canh dong Ha Noi
 Lăng đá quan Đề đốc là tên thường gọi của một khu lăng mộ đá cổ có quy mô khá lớn nằm trên cánh đồng sát khu đô thị Bắc An Khánh ở xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới