Mông Cổ đòi cống nạp vũ khí tối thượng, vua Trần phản ứng ra sao?

Sở dĩ nhà Nguyên đòi voi không phải mang về để ngắm cho vui mà đó là toan tính. Trong lần xâm lược Việt Nam lần thứ nhất, quân Mông Cổ đã được chứng kiến sức mạnh của tượng binh Đại Việt.

Sau khi ta và nhà Nguyên chính thức bang giao vào 1261 thì nhà Nguyên yêu cầu ta phải nộp đồ cống vật. Xét trong quan hệ ngoại giao thời xưa thì việc đòi hỏi bất bình đẳng này đã trở thành lệ. Những nước lớn thường ra yêu sách bắt các nước nhỏ phải tiến cống. Mặc dù nhà Trần vừa đánh thắng quân Nguyên Mông lần 1 vào năm 1258 nhưng ta cũng nhượng bộ một cách khéo léo để vừa khiến nhà Nguyên không tạo cớ xâm lược mà vừa giữ được thể diện. Nói tóm lại, ta cống mà thực ra không cống như dã tâm của nhà Nguyên.

Mong Co doi cong nap vu khi toi thuong, vua Tran phan ung ra sao?

Tượng binh có thể khắc chế kỵ binh.

Tháng 10/1262, Hốt Tất Liệt gửi chiếu thư cho vua Trần Thái Tông viết: “Khanh dã gửi đồ lễ xin làm bầy tôi, vậy bắt đầu từ năm Trung Thống thứ tư (1263), cứ 3 năm cống một lần. Hãy chọn Nho sĩ, thầy thuốc, người giỏi âm dương bói toán, các loại thợ, mỗi thứ 3 người, cùng dầu tô hợp, quang hương, vàng bạc, châu sa, trầm hương, đàn hương, sừng tê, đồi mồi, trân châu, ngà voi, vải trắng, chén sứ, đem đến cả một lúc...”

Lần lữa mãi đến cuối 1266, vua Trần mới sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang cống nhưng chỉ mang mấy đồ sản vật chứ quyết không cống người. Đây là việc làm đấu tranh biểu thị ý thức tự tôn dân tộc không cho người Việt đi làm nô lệ cho dân tộc khác. Với ý thức tự tôn cao như thế nên ta hiểu vì sao nhà Trần không bao giờ chịu góp quân lính đi đánh thuê cho triều đình Nguyên Mông như đã đề cập trong phần trước. Quan trọng hơn, ta không cống người thì sẽ hạn chế được nhà Nguyên khai thác tình hình nước ta thông qua giới tri thức là Nho sĩ, thầy thuốc và giới thạo âm dương...

Năm 1267, nhà Nguyên còn bận các mặt trận với quân Tống nên đành gửi chiếu nói kiểu vỗ về: Theo bài Thánh chế của vua Thái Tổ Hoàng Đế; Phàm những nước đã qui phụ với Trung Quốc, thì vua phải thân hành đến chầu, cho con em ở tại Trung Quốc làm tin, biên nạy dân số, cung ứng quân dịch, nạp thuế khoá, còn đặt quan Đạt lỗ hoa xích cai trị. Các khoản nói trên đều để tỏ rõ lòng trungthành làm nước chư hầu. Nay khanh cống hiến, không hề quá hạn ba năm, đủ biết lòng thành thật như trước, nên ta kể lại chế độ tổ tông nước ta, cũng lấy lòng thành thật tỏ bày vậy.

Nhưng chỉ 2 năm sau, khi tình hình thuận lợi thì nhà Nguyên đã thay đổi luôn thái độ. Trương Đình Trân trong thư gửi vua Trần có nêu: “An Nam vào cống không đúng kỳ hạn”. Hoàng Thường, sứ Mông Cổ cũng viết: “Đã 10 năm nay, vương không sang cống”.

Trong chiếu thư viết năm 1278 được An Nam chí lược chép cũng ghi lại thái độ bất mãn của nhà Nguyên khi vua Trần không đáp ứng chuyện cống nạp: “Theo chế độ của tổ tông đã qui định, phàm các nước nội phụ thì vua phải thân hành tới chầu, gửi con em làm tin, biên nạp dân số, nộp thuế lệ, mộ dân trợ binh và vẫn đặt quan Đạt lỗ hoa xích để thống trị; sáu điều nói trên, năm trước đã có lời dụ cho khanh biết rồi, thế mà qui phụ đã hơn 15 năm, khanh chưa từng tới triều kiến một lần nào, và các điều qui định đến nay vẫn chưa thi hành; tuy rằng ba năm tới cống hiến một lần, nhưng các đồ cống hiến đều không dùng được”.

Một món mà Mông Cổ rất khao khát được cống là voi nên mấy lần đòi loài thú to lớn này. Tuy nhiên, ta trước sau đều không đáp ứng. Năm 1269, vua Trần Thái Tông trả lời: “Theo lời của Khu Rung Khay A, bệ hạ muốn đòi mấy con voi lớn. Loài thú ấy thân thể to lớn lắm, bước đi rất chậm chạp, không như ngựa của thượng quốc. Xin tuân sắc chỉ, đợi đến năm sau tiến cống sẽ đem dâng”.

Nhưng năm sau, nhà Trần lại giục cống voi. Đến 1272, vua Trần trả lời thẳng: “Sứ đến nói việc đòi voi, trước vì sợ trái chỉ nên không dám nói thẳng là theo hay không theo, chứ thật ra vì tượng nô không chịu rời nhà, khó sai họ đi, còn việc cống nho sĩ, thầy thuốc và thợ thì khi bồi thần nước tôi là Lê Trọng Đà vào bệ kiến, gần uy quang trong gang tấc cũng không nghe chiếu dụ đến việc ấy”.

Sở dĩ nhà Nguyên đòi voi không phải mang về để ngắm cho vui mà đó là toan tính. Trong lần xâm lược Việt Nam lần thứ nhất, quân Nguyên đã được chứng kiến sức mạnh của tượng binh Đại Việt. Loài voi to lớn có thể khiến cho ngựa phương Bắc sợ hãi, quân Việt còn có thể dựa vào voi để tránh mưa tên vốn là sở trường của kỵ binh Nguyên Mông. Trong các cuộc chiến xâm lược phương nam thì quân Hán, quân Tống cũng rất ngại phải đối đầu với tượng binh của người Việt. Sự có mặt của tượng binh đã khắc chế nhiều sức mạnh của kị binh Mông Cổ nên chúng muốn có vài con voi cùng quản tượng về để nghiên cứu cách phá tượng binh ta. Với tinh thần cảnh giác cao của triều đình và sự anh minh của các vua Trần thì không có chuyện ta lại mang vũ khí tối thượng của mình ra cho kẻ địch.

Vị vua nào có 142 con, nhiều nhất trong sử Việt?

Theo sách sử ghi lại, vị vua này có nhiều con nhất với 142 người, gồm 78 con trai và 64 con gái, trong khi một số vua không có con nối dõi như Lý Nhân Tông.

Vi vua nao co 142 con, nhieu nhat trong su Viet?
 Triều đại nào có nhiều vua trị vì nhất trong lịch sử Việt Nam? Hậu Lê là triều đại có nhiều vua trị vì và tồn tại lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, trải qua hai giai đoạn Lê sơ (1428-1527) và Lê Trung hưng (1533-1789) với 30 đời vua.
Vi vua nao co 142 con, nhieu nhat trong su Viet?-Hinh-2
Ai không mang họ Trần nhưng lại làm vua nhà Trần? Dương Nhật Lễ (Đại Định Đế) là con của kép hát Dương Khương và Vương mẫu. Mẹ ông bị ép phải lấy Trần Nguyên Dục - anh vua Trần Dụ Tông khi đã mang thai ông. Trần Dụ Tông vì không con nối dõi nên đã nhận Dương Nhật Lễ làm con nuôi, truyền lại ngôi báu. Về sau, Dương Nhật Lễ bị quý tộc nhà Trần lật đổ. 

27 năm thịnh trị nhất lịch sử phong kiến Việt Nam do vị vua nào trị vì?

Giai đoạn thịnh trị nhất được xem là niên đại Hồng Đức dưới thời vua Lê Thánh Tông, kéo dài suốt 27 năm từ 1470 đến năm 1497.

Nhà Lê trải mấy đời vua mới ổn định được triều chính

Nhà Lê bắt đầu từ Lê Thái Tổ. Sau khi ông mất, Lê Thái Tông lên ngôi. Vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng xảy ra, khiến Thái Tông qua đời. Thái tử Bang Cơ lên ngôi Vua, hiệu là Nhân Tông, vì Vua còn nhỏ nên Nguyễn Thị Anh làm nhiếp chính.

Sự thật về lời nguyền gây ám ảnh của Lý Huệ Tông với nhà Trần

Trong ân oán giữa nhà Lý và nhà Trần thì câu chuyện về lời nguyền của Lý Huệ Tông trước khi tự sát tạo ra nhiều "ám ảnh".

Sử chép: "(Năm 1226) Thượng hoàng nhà Lý ở chùa Chân Giáo, thường ngồi xổm nhổ cỏ ở trước cửa chùa. Thủ Độ đi qua trông thấy, nói: "Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ sâu". Thượng hoàng đứng dậy, xoa tay, nói: "Lời của anh nói, ta đây biết rồi". Sau Thượng hoàng ra chơi chợ cửa Đông, nhân dân ganh nhau chạy ra xem, có người động lòng thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người tưởng nhớ đến vua cũ, sẽ sinh ra sự biến loạn chăng, nên lại càng canh giữ dò xét nghiêm mật hơn trước. Đến nay, Thủ Độ sai người đem hương hoa đến dâng và nói rằng: "Quan Thượng phụ có lời trần thỉnh". Lý Thượng hoàng giận lắm, nói rằng: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử". Rồi vào buồng ngủ, khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đã bị mày cướp mất, nay lại còn hãm hại ta, mai sau con cháu nhà mày cũng phải chịu như thế". Nói rồi liền thắt cổ ở vườn sau chùa. Thủ Độ bắt các quan đến khóc viếng, đào tường phía nam thành để làm cửa, di chuyển cữu ra phường An Hoa, dùng phép hỏa hóa, còn hài cốt thì đem chôn cất ở tháp chùa Bảo Quang".

  Su that ve loi nguyen gay am anh cua Ly Hue Tong voi nha Tran

Đọc nhiều nhất

Tin mới