Khúc bi tráng bên dòng Ô Giang: Dùng âm nhạc làm vũ khí đánh địch

Tiếng sáo đêm ấy do viên mưu thần lỗi lạc của nhà Hán là Trương Lương thổi, cộng hưởng với những bài Sở ca - được hát bởi những chiến binh nhà Hán.

Năm 202 TCN, Sở Bá vương Hạng Vũ bị quân đội của Hán vương Lưu Bang vây ở thành Cai Hạ, gần sông Ô Giang. Hạng Vũ núng thế, đang nghĩ suy tìm kế phá vây... bỗng nhiên lan tỏa cùng màn đêm là tiếng sáo cất lên.
Khuc bi trang ben dong O Giang: Dung am nhac lam vu khi danh dich

Tranh "Tây Sở Bá vương" Hạng Vũ trong trận chiến cuối cùng. Ảnh: Sohu

Tiếng sáo đêm ấy do viên mưu thần lỗi lạc của nhà Hán là Trương Lương thổi, cộng hưởng với những bài Sở ca - được hát bởi những chiến binh nhà Hán. Tiếng sáo vang vọng lúc trầm, lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết, bi thương...

"Dòng Ô Giang bỗng nhiên tràn tiếng sáo,

Xé màn đêm bủa khắp trại Sở vương,

Khúc nhạc Sở đêm nay sao sầu thảm?

Gọi Sở binh mau trở lại cố hương".

(Lê Thanh Bình, Đêm cuối của Hạng Vũ)

Khắp ba bề bốn bên đều âm vang lời ca nước Sở, như nỉ non, tâm tình. Những âm thanh đó hợp thành một bản giao hưởng "kể" về những kỷ niệm vùng Giang Đông nước Sở, về mẹ già tuôn nước mắt mong con, về những người vợ trẻ dừng tay dệt cửi - tựa cửa ngóng trông người chinh phu yêu dấu... và kêu gọi, giục quân Sở của Hạng Vũ mau rời quân doanh, trở về quê hương bản quán sinh sống, vì cuộc chiến đã đến hồi kết thúc, Sở bá vương đã bại trận.

Hạng Vũ thảng thốt, rúng động tâm can khi nghe toàn giọng hát nước Sở.

"Nghe tiếng sáo, Hạng vương lòng tan nát,

Đại thế tiêu rồi, lẽ nào mất hết đất?

Rượu đâu nào, hãy uống với sáo, ca…

Đêm sắp tàn, ánh kiếm lóe thê lương"

(Lê Thanh Bình, Đếm cuối của Hạng Vũ)

Vương hoảng hốt: "Chẳng lẽ bè lũ Hán vương đã vào được nước Sở rồi chăng? Sao mà khắp nơi toàn lính người Sở đông như vậy???" (trong cơn hoảng loạn, Vương nghĩ lầm rằng Hán vương đã bình định xong nước Sở, tuyển binh mới toàn người Sở). Nghe tiếng sáo Trương Lương, tâm trạng Hạng Vũ thêm rối bời, Vương nâng chén rượu tiễn biệt với người ái thiếp Ngu Cơ mà hát:

"Sức bạt núi, chí ngút trời,

Trời không giúp nữa, bị vây mấy vòng,

Ngựa Truy cưỡng lại chẳng phi?

Ngu Cơ thiếp hỡi, hiểm nguy cận kề".

(Lê Thanh Bình, Đêm cuối của Hạng Vũ)

Trong nước mắt, nàng Ngu Cơ hát đáp:

"Bá vương dũng mãnh chàng ơi,

Thiếp nay phận mỏng - ra đi

trước chàng,

Duyên tình sâu nặng hai ta,

Trời đất chứng giám, để dành kiếp sau".

(Lê Thanh Bình, Đêm cuối của Hạng Vũ)

Hạng Vũ, nàng Ngu Cơ và tả hữu thân cận vừa hát vừa khóc. Giây lát, sợ vướng chân anh hùng, nàng Ngu Cơ tuốt kiếm tự vẫn. Chôn cất xong mỹ nhân tri kỷ, Hạng Vũ gạt nước mắt lên ngựa ra điểm quân thì mọi người đã bỏ trốn gần hết. Hạng Vũ chỉ còn quanh mình hơn 800 tráng sĩ, liền trong đêm phá vòng vây ở phía Nam, chạy trốn.

Tảng sáng, những bài Sở ca đã tắt, nhưng dư âm của tiếng sáo địch vận như còn vương vấn quanh sóng nước Ô Giang và Hạng Vũ lúc đó chỉ còn lại hơn hai mươi chiến binh trung thành. Bên dòng Ô Giang, một ông già - nghĩa sĩ chèo thuyền, cắm sào đợi sẵn và thưa: "Xin đại vương mau vượt sông, về lại Giang Đông làm vương xứ sở quê nhà rồi đợi thời phục thù".

Nhưng Hạng Vũ từ chối, Vương nói: "Lòng trời không giúp ta, ta đã cùng hơn tám ngàn con em xứ sở vượt Trường Giang đi về phía Tây, thế mà nay mọi người đều tử trận. Dù các bô lão và trăm họ Giang Đông tha thứ cho ta, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy họ nữa".

Nghĩa sĩ già không nài ép nhiều vì ông chợt nhớ những lời của các nhà nhân tướng thuở ấy xem cho Hạng Vũ vẫn lưu truyền trong dân gian rằng: Họ Hạng "mặt da lim, tim ứa máu, cáu giận bất thường, đường ngay chẳng đi, bi thảm cuối đời"; "Mắt nhiều lòng trắng, mắng người vô cớ, sợ làm điều nhân, phân vân không quyết, huyết khí bốc đồng"...

Trời đã về chiều, áo bào của Hạng Vũ thấm máu, rách tả tơi, bay phần phật trong gió lạnh, tướng sĩ nhà Hán đã đuổi sát đến bến Ô Giang. Hạng Vũ ngước mắt nhìn tất cả và vẫn kịp nhớ lại bao điều: Hơn tám năm cầm quân đánh Nam dẹp Bắc, trực tiếp đánh hơn bảy mươi trận, tham gia diệt Tần, phong đất chư hầu, tha Hán vương ở bữa tiệc Hồng Môn... rồi Vương đâm cổ tự tử.

Hình như chỉ vài tích tắc trước lúc lìa cõi trần, Vương lại nhớ đến nàng Ngu Cơ yêu quý của mình, đến tiếng sáo định mệnh đêm qua, Vương khẽ mấp máy hai tiếng "Ngu Cơ" từ tâm khảm...

Cuộc đời oanh liệt của Hạng Vũ chỉ kéo dài gần 31 năm (232 TCN - 202 TCN) nhưng luôn được hậu thế nhắc đến. Ông từng làm tướng trực tiếp chỉ huy hàng vạn tướng sĩ từ năm 24 tuổi, năm 26 tuổi trở thành Tây Sở bá vương quyền uy tối thượng, đứng ra phân phong thiên hạ. Về người ái thiếp Ngu Cơ (tên thật là Ngu Diệu Dặc), Hạng Vũ đã gặp và yêu từ dịp ông sang thăm bà ngoại mình, tình cờ gặp Ngu Cơ lúc mới hơn 15 tuổi.

Càng lớn lên Ngu Cơ càng xinh xắn, đằm thắm; nàng có đôi mắt trong, môi hồng, nói năng thủ thỉ, giỏi múa hát, biết uống rượu, múa kiếm... Trải bao trắc trở xa cách do Hạng Vũ bận chinh chiến khắp nơi, sau 10 năm khi viên tướng dũng mãnh đó thành danh mới đón nàng về sum họp.

Ngu Cơ chính là dòng suối róc rách, mát lành có thể xoa dịu tâm hồn, nâng đỡ tinh thần, động viên cổ vũ ý chí của Hạng Vũ. Nàng Ngu Cơ luôn kề cận với "nửa kia" của mình, chia sẻ mọi buồn vui, sống hết mình với Hạng Vũ và tự kết liễu cuộc đời khi chưa đến 30 tuổi trong đêm định mệnh khi chứng kiến phu quân yêu quý của mình đã trên bờ thảm bại.

Mỹ nhân đổ máu hồng, khiến dòng lệ anh hùng rơi lã chã rồi nàng ra đi trước, chàng theo sau làm bạn nơi suối vàng. Người đời từ đó đến nay đều cho rằng, Ngu Cơ là hồng nhan tri kỷ, là tri âm cận kề được tạo hóa sinh ra để sống chết với chiến thần Hạng Vũ si tình, coi trọng người tình hơn mọi thứ trên đời.

Trong doanh trại nhà Hán, hay tin về kết cục của Hạng Vũ, viên mưu thần kiệt xuất của nhà Hán "ngồi trong màn trướng mà quyết định thắng lợi ở ngoài ngàn dặm", nhà binh vận, nhà nghệ sĩ Trương Lương đã cất cây sáo từ lâu, dường như Trương Lương đang tư lự, suy ngẫm về sự đời, về sự thành bại của con người... Ông lẩm bẩm thành lời: "Tiếng sáo và nhạc điệu cũng là vũ khí trong ngoại giao và chiến tranh vì có thể tạo thành sức mạnh làm tan rã lòng quân địch".

Mưu Thánh trong lịch sử Trung Hoa

Trương Lương là vị "Mưu Thánh" đứng thứ 3 trong các đại quân sư kiệt xuất nhất lịch sử Trung Quốc, xếp trên Gia Cát Lượng tới 4 bậc

Năm xưa Hán - Sở tranh hùng , Hạng Vũ (232 TCN - 202 TCN) tài danh lẫy lừng, xuất thân cao quý nhưng lại thất bại dưới tay Lưu Bang, vốn là nông dân ít học.

Nhìn vào lý lịch của vị hoàng đế khai quốc nhà Hán, ai cũng có thể nhận ra Lưu Bang không giỏi binh pháp, không giỏi cầm quân, lại sống buông thả ham mê tửu sắc, tuy vậy phẩm chất khiến ông trở thành bá chủ thiên hạ chỉ gói gọn trong hai chữ: Dụng quân.

Lưu Bang (256 TCN -195 TCN) là bậc thầy trong thuật dùng người, vị quân vương luôn biết cách chiêu mộ người tài và người tài cũng vì vậy mà tự nguyện giúp ông hoàn thành bá nghiệp.

Sau khi diệt Sở, thu giang sơn về một mối, Hán Cao Tổ Lưu Bang trong bữa tiệc ăn mừng ở Lạc Dương mới hỏi quần thần rằng có biết ông và Hạng Vũ khác nhau ở chỗ nào không. Các quan trong triều đều cho rằng ông là người nhân nghĩa, chính trực.

Nghe đến đây, Lưu Bang mới lắc đầu mà nói:

"Việc tính toán trong màn trướng mà quyết định sự thắng ở ngoài ngàn dặm thì ta không bằng Trương Lương ; trị nước nhà, vỗ yên trăm họ, vận tải lương thực không bao giờ gián đoạn thì ta không bằng Tiêu Hà; đoàn kết trăm vạn người như một, đánh tất thắng, tấn công chắc chắn được thì ta không bằng Hàn Tín .

Ba người này đều là những kẻ hào kiệt, ta biết dùng họ cho nên lấy được thiên hạ. Hạng Vũ có một Phạm Tăng mà không biết dùng cho nên mới bị ta bắt."

Có thể thấy, những nhân tài đứng sau Lưu Bang mới chính là điều làm nên sự khác biệt của vị Hoàng đế, trong đó, người Hán Cao Tổ trọng dụng nhất chính là nhân vật được nhắc đến đầu tiên - "Mưu Thánh" Trương Lương .

Muu Thanh trong lich su Trung Hoa

Trương Lương (? - trước năm 189) là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán - Sở rồi sáng lập ra nhà Hán.

Tờ Sohu liệt ông vào hàng ngũ 10 đại quân sư kiệt xuất nhất lịch sử Trung Quốc, đứng vị trí thứ 3 chỉ sau Khương Tử Nha và Lưu Bá Ôn , đứng trên Gia Cát Lượng tới 4 bậc. Vậy Trương Lương có tài năng kiệt xuất gì mà lại được đánh giá cao tới vậy?

Hãy cùng tìm hiểu qua 2 kế sách lợi hại của vị đại quân sư này.

Cứu Lưu Bang khỏi "kiếp nạn" Hồng Môn Yến

Hồng Môn Yến hay bữa tiệc ở Hồng Môn (địa danh nay thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) thoạt nghe chỉ giống như một bữa tối của các vị quân vương nhưng lại chính là sự kiến làm bùng nổ cuộc chiến kéo dài 5 năm giữa Lưu Bang và Hạng Vũ.

Sự kiện bắt đầu vào cuối năm 207 TCN, khi Lưu Bang và Hạng Vũ đều muốn chiếm được vùng đất trung tâm của nhà Tần ở Quan Trung.

Lúc này Hạng Vũ là người đến sau, nhận thấy quân Lưu Bang vào chiếm Quan Trung trước thì vô cùng tức giận, muốn lên kế hoạch vây quân chiếm lại. Quân đội của Hạng Vũ có tới 40 vạn binh trong khi Lưu Bang chỉ mang vỏn vẹn 10 vạn binh nên nếu đánh thì thắng thua đã rõ ràng.

Trớ trêu thay, Hạng Bá - chú của Hạng Vũ lại là bằng hữu thân tín của Trương Lương. Vì lo lắng cho tính mạng bạn mình, Hạng Bá đã tìm đến trại để kể tình hình và khuyên Trương Lương nên trốn đi.

Muu Thanh trong lich su Trung Hoa-Hinh-2

Nhận được tin, vị quân sư kiên trung lập tức báo cáo cho chủ soái Lưu Bang, còn chỉ rõ đường đi nước bước sao cho quân mình rút lui êm đẹp trước sức mạnh của Hạng Vũ.

Nghe theo lời "Mưu Thánh", Lưu Bang bèn tranh thủ sự giúp đỡ của Hạng Bá, để Hạng Bá nói với cháu trai mình rằng quân đội của ông đã sẵn sàng quy phục. Nhờ đó, Lưu Bang được mời đến bữa tiệc Hồng Môn do Hạng Vũ chuẩn bị.

Trương Lương đã sớm căn dặn, chủ soái của mình đến tiệc phải ứng xử khiêm nhường, phải liên tục ngợi khen Hạng Vũ là bậc kỳ tài trong thiên hạ, không ai sánh được. Lưu Bang nhất nhất nghe theo, còn nói thêm rằng quân mình tiến vào Quan Trung trước chỉ là do may mắn, mong Hạng Vũ đừng nghe lời những kẻ xấu xa đặt điều.

Ban đầu, kế sách của Phạm Tăng (quân sư thân tín của Hạng Vũ) là dụ Lưu Bang đến Hồng Môn Yến để tiêu diệt, thế nhưng khi nhìn thấy bậc cha chú hơn mình tới 30 tuổi đang "phủ phục" trước mắt, Hạng Vũ kiêu ngạo không thể không động lòng.

Muu Thanh trong lich su Trung Hoa-Hinh-3

Tây Sở Bá Vương cuối cùng bỏ ngoài tai lời quân sư, quyết định "thả hổ về rừng" không giết Lưu Bang. Đây chính là quyết định sai lầm nhất của Hạng Vũ khiến ông phải chịu hậu họa lớn.

Đứng trước một vị chiến thần tài hoa nhưng kiêu ngạo như Hạng Vũ, Trương Lương đã dùng đến kế sách mà hậu thế gọi là "kim thiền thoát xác" hay "ve sầu thoát xác", nghĩa là bên ngoài nhẫn nhịn chịu đựng, bên trong âm thầm chuẩn bị lật ngược tình thế.

Mưu kế hơn người này đã khiến Lưu Bang ngày càng thêm trọng dụng vị quân sư thân tín.

Tập hợp trăm vạn binh mã không tốn chút sức lực

Năm 202 TCN, Lưu Bang trải qua nhiều năm giao chiến với Hạng Vũ thì nhận thấy mình thua nhiều hơn thắng. Muốn một lần tiêu diệt tận gốc Tây Sở Bá Vương, Lưu Bang nhất định phải hội đủ quân mới có cơ hội.

Giữa thời khắc nội bộ mâu thuẫn, rối ren - Lưu Bang và danh tướng Hàn Tín xảy ra bất hòa, quân sư Trương Lương buộc phải ra tay dàn xếp.

Để giữ chân vị tướng "bách chiến bách thằng", Trương Lương tự thân đến gặp Hàn Tín thuyết phục rằng ông nên cùng Hạng Vũ hội quân đánh bại kẻ thù, chỉ có vậy ngôi vị của ông mới vững chãi. Hàn Tín nghe vậy, phần vị nể nang Trương Lương, phần vì căm ghét kẻ thù chung, nên đã quyết định bỏ qua hiềm khích hội quân cùng Lưu Bang.

Đối với các nước chư hầu khác, Trương Lương bày cho chủ soái của mình cách dùng của cải, đất đai để phong thưởng lấy lòng họ. Cuối cùng thu nạp lực lượng quân sĩ lớn vượt trội so với quân Sở, tiến đánh trận Cai Hạ - trận đánh then chốt trong cuộc chiến Hán - Sở tranh hùng.

Muu Thanh trong lich su Trung Hoa-Hinh-4

Trong trận chiến, Trương Lương biết người Sở rất yêu quê hương nên đã hiến kế "tứ diện Sở ca". Theo đó, Lưu Bang cho quân mình mai phục bốn phía, vây chặt thành Cai Hạ, hát to dân ca nước Sở khiến Hạng Vũ ở trong thành cũng vô cùng ngạc nhiên:

"Lưu Bang đã chiếm được đất Sở rồi sao? 

Tại sao lại có nhiều người Sở trong quân đội ông ta như vậy?"

Quân binh của Hạng Vũ bị đánh mạnh vào tinh thần nên vô cùng rệu rã, càng đánh càng thua.

Nhiều tài liệu nói rằng Hạng Vũ cảm thấy mình không có mặt mũi nhìn người Sở nên đã tự sát hoặc vẫn còn sống những đã trốn đi thật xa.

Cuối cùng, Lưu Bang thống nhất được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Hán Cao Tổ.

Công trạng phò tá Hán Cao Tổ to lớn là vậy nhưng Trương Lương cuối cùng chỉ khiêm tốn xin được nhận một phần đất phong nhỏ hẹp.

Tài năng và tầm nhìn của Trương Lương đã khiến sử gia Tư Mã Thiên hết mực nể trọng. Trong cuốn "Sử Ký", Tư Mã Thiên đã xếp câu chuyện của ông vào phần Thế gia, tức là phần dành cho các nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc trong khi Hàn Tín chỉ được cho vào phần Liệt truyện - các sự kiện, câu chuyện ít quan trọng hơn.

Video: Lý do Hạng Vũ được coi là đệ nhất chiến thần Trung Hoa

Trong lịch sử Trung Hoa có vô số võ tướng tài trí hơn người. Tuy nhiên, người được đánh giá là danh tướng "thiên cổ vô nhị" lại chỉ có duy nhất Hạng Vũ.

Video: Hóa ra đây là lý do Hạng Vũ được coi là đệ nhất chiến thần Trung Hoa. Nguồn: Lịch Sử Trung Quốc.

Tào Tháo khoản đãi không bạc, tại sao Quan Vũ không theo?

Có 2 lý do khiến Tào Tháo khó có thể thay đổi được Quan Vũ.

ào Tháo có ơn rất lớn với Quan Vũ và cũng một người có tài trí kiệt xuất, tại sao Quan Vũ vẫn không chấp nhận làm việc dưới trướng của Tào Tháo? Phải chăng là Tào Tháo không biết phân biệt phải trái?

Tất nhiên là không.

Đọc nhiều nhất

Tin mới