Không phải bây giờ, thời Bắc Tống đã có vũ khí sinh hoá

Thời nhà Tống, một mẫu vũ khí tương tự như vũ khí sinh hóa đã xuất hiện. Không chỉ có thể phát nổ còn có thể tỏa ra khói độc, lực sát thương rất lớn.

Khi xung đột giữa Nga và Ukraine gia tăng, các vấn đề quân sự khác nhau đều thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, trong đó có cả thông tin về khả năng sử dụng vũ khí sinh hóa. Song, bạn có biết rằng ngay từ thời Tống, vũ khí sinh hóa đã được đưa vào sử dụng trên chiến trường, đem lại nỗi sợ ghê gớm cho đối thủ.

Theo tìm hiểu, thuốc súng chính thức xuất hiện vào thời nhà Đường (cuối thế kỷ thứ 9), được phát triển bởi các nhà giả kim thuật cổ đại. Từ thời Chiến quốc đến đầu thời nhà Hán, các hoàng đế và quý tộc Trung Quốc không ngừng mê đắm trong mộng tưởng trường sinh bất tử, từ đó một số nhà giả kim và đạo sĩ đã xuất hiện, liên tục nghiên cứu tiên đơn. Trong quá trình luyện đơn, họ lại vô tình phát minh ra công thức thuốc súng.

Khong phai bay gio, thoi Bac Tong da co vu khi sinh hoa

Ảnh minh họa.

Song, vì thuốc súng không thể giải quyết được vấn đề trường sinh bất tử lại còn rất dễ bắt lửa nên các nhà giả kim thuật không mặn mà với nó. Công thức chế tạo thuốc súng được chuyển từ các nhà giả kim sang các nhà chiến lược quân sự, trở thành thuốc súng thực sự - một trong bốn phát minh vĩ đại ở Trung Quốc cổ đại.

Trước khi thuốc súng được phát minh, tấn công bằng hỏa lực là một phương pháp tấn công phổ biến được các nhà chiến lược quân sự sử dụng. Vào thời đó, để tấn công hỏa lực, người ta sử dụng một loại vũ khí gọi là hỏa tiễn, bắn ra các mũi tên bốc lửa dùng để thiêu rụi các vị trí chiến lược của đối phương. Song, khi thuốc súng xuất hiện, tấn công hỏa lực được nâng lên một tầm cao mới.

Thời Đường, việc thuốc súng được gói nén và kích hỏa, ném vào trận địa kẻ thù đạt được hiệu quả rất cao. Đây cũng được xem là "vũ khí nóng" đầu tiên trên thế giới. Tới thời nhà Tống, thứ vũ khí tầm nhiệt này đã phát triển cực nhanh và trở nên phổ biến. Chính quyền thậm chí còn thành lập cả một bộ phận chuyên sản xuất vũ khí từ thuốc súng. Trong đó một mẫu vũ khí tương tự như vũ khí sinh hóa đã xuất hiện.

Khong phai bay gio, thoi Bac Tong da co vu khi sinh hoa-Hinh-2

Ảnh minh họa.

Sách quân sự cổ đại "Võ Kinh Tổng Yếu" thời Bắc Tống từng chép về một loại vũ khí có tên là "Độc dược yên cầu", trong đó giới thiệu chi tiết các phương pháp sản xuất thứ vũ khí sinh hóa này. Trong đó đề cập đến việc vũ khí này không chỉ chứa thuốc súng mà còn chứa chất cực độc. Vũ khí này được chế tạo rất tỉ mỉ, tính toán cẩn thận để đảm bảo chỉ phát nổ khi ném vào trận địa kẻ thù.

Mục tiêu của vũ khí này là tạo ra tiếng lớn, phát nổ nhanh và mạnh, đủ để dọa cho ngựa sợ hãi chạy loạn. Đồng thời thuốc độc trong đó cũng bị đốt cháy, tạo thành khói độc. Khi khói độc lan ra, khói bay đến đâu người và ngựa hít phải sẽ trúng độc ngay lập tức, nhẹ thì mũi miệng chảy máu, chân tay tê liệt, nặng thì tử vong.

Tuy nhiên, ngay cả khi sở hữu các loại vũ khí sinh hóa lợi hại như vậy, do quốc sách trọng văn khinh võ, cuối cùng nhà Tống cũng không chấn hưng nổi, khí lực quốc gia ngày càng bạc nhược yếu kém, khuyết thiếu binh lực che chắn, bảo vệ, cuối cùng bị người Kim tiêu diệt.

Hộp sọ của vua Tống trở thành cốc uống rượu

Nhiều nơi trên thế giới có ghi chép về việc lấy đỉnh sọ người làm cốc rượu hay còn gọi là "Cốc Đầu Lâu".

Một số tộc người du mục có thói quen lấy hộp sọ của đối phương làm cốc rượu như Thiền Vu Hung Nô thời Hán giết vua nước Nguyệt Chi rồi lấy hộp sọ làm thành cốc.

Bức họa trong Bảo tàng Cố Cung về thời Bắc Tống: Có cả shipper?

Họa sĩ Trương Trạch Đoan đã vẽ tổng cộng 814 người, 28 chiếc thuyền và hơn 30 ngôi nhà. Không những thế, bức họa của ông còn hé lộ về một ngành nghề đặc biệt dưới thời Bắc Tống.

Bắc Tống (960–1127) là một trong những triều đại hưng thịnh và phồn hoa nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc cổ đại. Nếu dùng thước đo kinh tế ngày nay để đánh giá thì tại thời điểm đó, GDP bình quân đầu người của Bắc Tống là 600 USD, trong khi người dân châu Âu chỉ là 439 USD.

9 năm phải sống trong giam cầm, vua Tống vẫn sinh được 14 người con

Một vị vua mất nước sao có thể sinh được đến 14 người con trong vòng 9 năm bị bắt bớ giam cầm.

Hoàng đế là quân chủ của một quốc gia, chân mệnh thiên tử của một triều đình cũng như là khuôn thước của muôn vạn con dân.

Trên cương vị của một hoàng đế, đó phải là người có lòng can đảm hơn người, nắm giữ quyền hành trong tay, lại giỏi giang hết mực, nhìn thấu lòng người, mạnh mẽ và quyết đoán.

Cho dù phải đối diện kẻ thù, đối mặt với tình cảnh nước mất nhà tan cũng sẽ không khom lưng cuốn gối, đánh mất đi khí phách cần có của một bậc đế vương.

Tiếc thay, Tống Huy Tông Triệu Cát lại không phải là vị hoàng đế như vậy. Đường đường là quân chủ của một quốc gia, thế nhưng nhìn thấy cảnh xã tắc lâm nguy, hành động của Triệu Cát lại là ...tháo chạy.

Trước khi bỏ chạy, vẫn không quên gấp rút truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn, để không phải mang danh "vị vua mất nước".

Bị bắt làm tù binh vẫn ăn chơi hưởng lạc

Về sau, khi bị người Kim bắt làm tù binh, Triệu Cát chẳng những nhận cái chức danh đầy mỉa mai châm biếm "Hôn Đức Công" (tước vị phong cho một số vị vua bị phế truất) mà còn chấp nhận hàng loạt điều kiện mà ngườ Kim đưa ra.

Chưa dừng lại ở đó, trong thời gian bị giam cầm, ông ta vẫn thản nhiên lao đầu vào cuộc sống đầy cao lương mỹ tửu, ong bướm rập rìu. Chẳng thế mà ông ta đã sinh những 14 người con chỉ sau vẻn vẹn 9 năm.

Tranh chân dung Tống Huy Tông Triệu Cát.

Quay trở lại năm 1126, sau công nguyên (năm Tĩnh Khang đầu tiên), quân Kim tiến giáp thành, Triệu Cát lập tức truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn.

Tháng 3 năm sau, hai cha con họ đều bị người Kim bắt làm tù binh, một mạch đưa tới Ngũ Quốc thành (nay là Y Lan, Hắc Long Giang), bắt đầu những chuỗi ngày bị giam hãm tại nơi đây.

Do không trả nổi số tiền bồi thường cho người Kim, Tống Huệ Tông đang tâm dùng phi tần, công chúa của mình gán nợ cho nước Kim, trong đó đích nữ vương phi, con cháu hoàng thất mỗi người được quy ra giá là 1000 lượng vàng; các thứ nữ, thê thiếp còn lại mỗi người giá khoảng 500 lượng vàng.

Những cô gái hoàng thất vốn từng là lá ngọc cành vàng giờ đây lại trở thành nô lệ trong tay người Kim.

Trong khi đó, Tống Huy Tông ngang nhiên chấp nhận phong hiệu, nhà cao cửa rộng, ruộng đồng tươi tốt của người Kim ban cho.

Tuy rằng những thứ này còn cách xa so với cuộc sống khi còn trên ngai vàng, thế nhưng dù sao cũng vẫn có cơm no rượu say, sống những ngày tháng phiêu diêu tự tại.

Cứ như thế, ông ta đã sinh ra cả thảy 14 người con, 6 trai và 8 gái.

Song, sách "Tĩnh Khang bái sử tiên chứng", chương "Tống phù ký" (ghi chép lưu đày thời Tống) có viết:

Biệt hữu tử nữ ngũ nhân, cụ lục niên xuân sinh, phi hôn đức dận.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-2

Ảnh minh họa.

Ngoài 14 người kể trên, Tống Huy Tông còn có 5 người con. Mặc dù do thê thiếp của ông ta sinh thành nhưng không phải là con đẻ của Tống Huy Tông.

Hai chữ "biệt hữu" trong câu trên quả thực ý vị sâu xa, khiến người ta không khỏi suy ngẫm. Đối với một cựu hoàng đế, một người đàn ông mà nói, đây quả là một điều vô cùng nhục nhã.

Người Kim từng bước từng bước đưa ra những chiêu trò khiêu khích, hết lần này đến lần khác sỉ nhục Tống Huy Tông, cuối cùng cũng khiến cho tinh thần của ông ta suy sụp.

Vào ngày Giáp Tý, tháng 4 năm Thiên Hội thứ 13 (nước Kim), tức năm 1135, Tống Huy Tông ý thức được rằng bản thân không còn hy vọng trở về tổ quốc mà đau không thiết sống.

Ông ta vĩnh viễn nhắm mắt tại Kim quốc, hưởng thọ 54 tuổi. Kim Hi Tông cho an táng tại đất Hà Nam (nay là khu vực gần Lạc Dương, Hà Nam).

Trong những ngày tháng bị giam cầm, Tống Huy Tông viết rất nhiều câu thơ đầy những uất hận, ai oán, thê lương. Trong đó áng thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất phải kể tới "Tại bắc đề bích ":

Triệt dạ tây phong hám phá phi

Tiêu điều cô quán nhất đăng vi

Gia sơn hồi thủ tam thiên lí

Nhật đoạn thiên nam vô nhạn phi.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-3

Ảnh minh họa.

Dịch nghĩa:

Cuộc sống vinh hoa phú quý ngày xưa giờ đã tan thành mây khói

Nỗi đau mất nước

Nỗi nhục tù đày

Mọi thứ đều chỉ còn tiếng thở dài không nói hết.

Giữa mênh mông lạnh lẽo nơi đất Bắc, Tống Huy Tông chỉ có thể bày tỏ nỗi lòng đau thương với ngọn đèn leo lắt.

Người ta nói rằng, bi kịch của Triệu Cát vốn đã được định sẵn kể từ khi mới lọt lòng.

Đáng lẽ, ông có thể trở thành một thi nhân, họa sĩ, nhà thư pháp lẫy lừng, chẳng ngờ lại sinh ra trong gia đình bậc đế vương để rồi phải trở thành "đại hôn quân" trong mắt người đời.

Sách "Tống sử" viết một câu bình về Tống Huy Tông như sau:

Chư sự giai năng, độc bất năng vi quân nhĩ - nghĩa là giỏi giang nhiều việc, chỉ duy nhất việc làm vua là không có khả năng.  

Đọc nhiều nhất

Tin mới