Khám phá “lính gác trời” E-3 Sentry của Mỹ

(Kiến Thức) - Là chỗ dựa cảnh báo lẫn chỉ huy cực kì quan trọng của các loại máy bay chiến đấu, E-3 Sentry giống như một "con mắt thần" rất lợi hại trên bầu trời.

Từ năm 1954-1982, Quân đội Mỹ tin tưởng vào loại máy bay EC-121 “Ngôi sao cảnh giác” làm nhiệm vụ cảnh báo sớm trên không (AEW).
Máy bay AEW được phát triển nhằm nhiệm vụ chỉ huy và dẫn đường từ trên không cho tất cả các lực lượng tác chiến thông qua khả năng kết nối thông tin với các loại máy bay, phương tiện mặt đất và tàu chiến, đó là minh chứng cho thời đại phát triển vượt bậc về điện tử và xử lý với sự nâng cao về khả năng dò tìm, theo dõi và nhận diện.
Những chiếc máy bay như EC-121, do đó hoạt động như một “chỉ huy” quan sát toàn cục chiến trường từ trên cao, các phiên bản máy bay “Ngôi sao cảnh giác” dựa trên dây chuyền “Constellation” của hãng Lookheed đã được sản xuất với số lượng 236 chiếc, với sự dễ nhận biết ở cánh quạt 3 lá và thân máy bay to một cách kỳ dị, chúng đã tham gia tác chiến khá hiệu quả trong chiến tranh Việt Nam và là mục tiêu “săn đón” của lực lượng phòng không không quân miền Bắc.
Máy bay cảnh báo sớm EC-121 trong chiến tranh Việt Nam là loại vũ khí lợi hại của không quân Mỹ
Máy bay cảnh báo sớm EC-121 trong chiến tranh Việt Nam là loại vũ khí lợi hại của không quân Mỹ
Sau đó, Không quân Mỹ đã lên kế hoạch ra đời một dòng máy bay cảnh báo sớm AEW mới có khả năng tác chiến vượt trội để thay thế cho loại EC-121. Công nghệ động cơ phản lực cánh quạt lúc này đã cho phép một máy bay to hơn có thể bay xa, bay cao hơn thế hệ trước và loại máy bay Boeing-707 đã được chọn làm khung thân cho hệ thống radar tân tiến mới.
Có hai hệ thống sau đó được thử nghiệm lên 2 chiếc Boeing-707 mẫu, một radartừ Westinghouse và một loại khác từ Hughes, sau đó radar của Wsetinghouse chính thức được chọn và đã ra đời chiếc máy bay E-3 Sentry (lính canh gác). Có 68 chiếc E-3 Sentry đã được sản xuất từ năm 1977 đến 1992, định danh đầy đủ của của mẫu máy bay mới này là “cảnh báo sớm và chỉ huy trên không – AEW&C” hay còn được viết tắt là AWACs.
"Lính gác trời" E-3 Sentry.
"Lính gác trời" E-3 Sentry.
Về cấu trúc, E-3 giữ hầu hết những đặt điểm của chiếc Boeing-707 chở khách với thiết kế cánh đặt thấp, một cánh đuôi đứng hay hệ thống càng đáp 8 bánh sau và 2 bánh trước, còn sự khác biệt chính là khoang chở khách nay được đặt làm nơi làm việc của kíp sĩ quan điện tử và máy móc của họ hay rõ ràng nhất chính là cái “đĩa” radar xoay gắn trên thân máy bay.

Cái “đĩa” xoay trên thân E-3 chính là điểm quan trọng nhất của chiếc máy bay này, bên trong nó là radar AN/APY-1/2 AWACS của hãng Northrop Grumman, như đã nói khi rađa ở chế độ hoạt động đĩa sẽ xoay 6 vòng/phút, còn khi rađa không hoạt động đĩa sẽ xoay 1 vòng mỗi 4 phút.

Loại radar sử dụng trên E-3 này có các chế độ hoạt động: Quét xung Doppler không độ cao (PDNES) cho chức năng giám sát mục tiêu trên không, quét xung Doppler có độ cao (PDES) để xác định độ cao mục tiêu, chế độ quét rađa ngoài đường chân trời, nhận thông tin chỉ huy thụ động, chế độ giám sát biển sử dụng xung cực ngắn để giám sát tàu bè và cuối cùng là chế độ chờ.

Sau đó Tập đoàn Boeing, với công nghệ cảm biến điện tử của riêng họ và sự hỗ trợ của Northrop Grumman với vai trò là nhà thầu phụ đã tiến hành chương trình nâng cấp rađa cho E-3 Sentry tập trung ở khả năng phát hiện cho radar AN/APY-1/2 các mục tiêu độ phản xạ hiệu dụng nhỏ, tên lửa hành trình và khả năng chống gây nhiễu điện tử. Khả năng này đạt được nhờ việc lắp đặt máy tính cho hệ thống rađa cảnh giới (SRC) mới thay thế cho công nghệ Doppler kĩ thuật số cũ và chuyển các phần mềm tích hợp thành ngôn ngữ ADA.

Ngoài ra, trên E-3 còn trang bị hệ thống phân biệt địch - tan AN/APX-103, nó liên tục cung cấp thông tin về tất cả các mục tiêu trong tầm quét, thông tin sẽ là tình trạng IFF (cho biết mục tiêu là quân mình hay quân địch, khoảng cách, phương vị, độ cao và mã nhận điện)

E-3 Sentry dài 46,3m, sải cánh hai bên là 44,4m và cao 12,6m, nó có khối lượng cất cánh tối đa đạt tới 157 tấn.
E-3 Sentry sử dụng 4 động cơ phản lực Pratt & Whitney T3D (là loại động cơ sử dụng trên máy bay ném bom chiến lược Boeing B-52H Stratofortress và máy bay vận tải C-131 Starlifter). Lô sản xuất đầu tiên mang tên E-3A với 24 chiếc sử dụng động cơ TF-33 và radar AN/APY-1, sau đó là E-3B rồi tới E-3C với radar hiện đại hơn AN/APY-2 và lắp đặt thêm khoang chỉ huy kíp bay. Còn E-3D và E-3F là phiên bản xuất khẩu cho không quân Anh và sau đó là Pháp.
Bản E-3D cho Không quân Anh sử đụng động cơ CFM-56 và được kí hiệu “Sentry AEW.1”, bản E-3F dành cho Pháp với những tùy chọn riêng theo Pháp yêu cầu. Có một điều thú vị là Iran cũng đặt mua 3 chiếc E-3 Sentry cho không quân của họ, tuy nhiên cuộc cách mạng hồi giáo năm 1979 ở Iran đã chấm dứt mọi quan hệ quân sự giữa Mỹ và quốc gia Hồi giáo này.
E-3 Sentry là chỗ dựa quan trọng của máy bay chiến đấu liên quân NATO
E-3 Sentry là chỗ dựa quan trọng của máy bay chiến đấu liên quân NATO
Phiên bản E-3 Sentry mới nhất là loại E-3G đang được Boeing thử nghiệm những nâng cấp sâu ở hệ thống điện tử và hiệu suất tác chiến, trong đó có thể kể đến những thứ như buồng lái kiểu cũ sẽ được thay thế hoàn toàn bởi buồng lái mới “hoàn toàn màn hình số” để theo kịp xu hướng các loại máy bay thế hệ 5.
Tác chiến trên E-3 Sentry là kíp phi công 4 người cùng đội ngũ chuyên viên tác chiến điện tử từ 13 đến 19 người.
Sức mạnh đến từ 4 động cơ Pratt&Whitney TF33-PW-100A cho E-3 Sentry đạt tốc độ tối đa 981km/h với tầm hoạt động 7.400km ở độ cao 12.500m.
Thời gian hoạt động liên tục 8 giờ trên không đảm bảo tốt các hoạt động tác chiến liên tục, hơn nữa nó còn có thể được tiếp dầu trên không từ máy bay KC-135 Stratotanker giúp tăng đáng kể khả năng quần thảo trên bầu trời cho E-3.
Hệ thống hiển thị thông tin bên trong E-3C.
 Hệ thống hiển thị thông tin bên trong E-3C.

Sĩ quan điều khiển hệ thống.
 Sĩ quan điều khiển hệ thống.
Từ khi ra đời, E-3 đã đóng vai trò quan trọng trong tất cả các cuộc chiến mà Mỹ tham gia như chiến dịch Lá chắn Sa mạc năm 1990 ở vịnh Péc-xích, sau đó là bài kiểm tra sức mạnh trong chiến dịch bão táp sa mạc năm 1991, nơi chứng kiến lực lượng không quân hùng mạnh của Saddam Hussein bị loại bỏ hoàn toàn cho đến những chiến dịch gần đây nhất của liên quân NATO là thiết lập và tiêu diệt Không quân Lybia năm 2011.

“Mắt thần” của Không quân Trung Quốc

Trong không chiến hiện đại, việc phát hiện sớm đối phương và chỉ huy các phi đội máy bay chiến đấu có vai trò sống còn. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhiều quốc gia đã phát triển mẫu máy máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy đường không (AWACS). Đây được coi là “mắt thần” của không quân làm nhiệm vụ phát hiện sớm đối phương và dẫn đường cho máy bay đồng minh tấn công mục tiêu.
Trong không chiến hiện đại, việc phát hiện sớm đối phương và chỉ huy các phi đội máy bay chiến đấu có vai trò sống còn. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhiều quốc gia đã phát triển mẫu máy máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy đường không (AWACS). Đây được coi là “mắt thần” của không quân làm nhiệm vụ phát hiện sớm đối phương và dẫn đường cho máy bay đồng minh tấn công mục tiêu.

Máy bay AWACS đóng vai trò mang tính sống còn trong một trận chiến trên không cho nên nhiều cường quốc đã nỗ lực phát triển AWACS, và Trung Quốc không là ngoại lệ. Từ những năm 1960, Trung Quốc đã triển khai dự án 926 phát triển loại máy bay này. Kết quả, họ đã cho ra đời máy bay AWACS KJ-1 (trong ảnh).
Máy bay AWACS đóng vai trò mang tính sống còn trong một trận chiến trên không cho nên nhiều cường quốc đã nỗ lực phát triển AWACS, và Trung Quốc không là ngoại lệ. Từ những năm 1960, Trung Quốc đã triển khai dự án 926 phát triển loại máy bay này. Kết quả, họ đã cho ra đời máy bay AWACS KJ-1 (trong ảnh).

KJ-1 được thiết kế dựa trên khung thân cơ sở máy bay ném bom hạng nặng động cơ cánh quạt Tupolev Tu-4. Dự án này dường như chỉ mang tính chất thử nghiệm, không bao giờ được đưa vào phục vụ trong Không quân Trung Quốc. Trong ảnh là máy bay thử nghiệm KJ-1 được lưu giữ tại bảo tàng.
KJ-1 được thiết kế dựa trên khung thân cơ sở máy bay ném bom hạng nặng động cơ cánh quạt Tupolev Tu-4. Dự án này dường như chỉ mang tính chất thử nghiệm, không bao giờ được đưa vào phục vụ trong Không quân Trung Quốc. Trong ảnh là máy bay thử nghiệm KJ-1 được lưu giữ tại bảo tàng.

Đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu tái khởi động chương trình phát triển máy bay AWACS để đáp ứng yêu cầu bắt buộc của một cuộc chiến tranh hiện đại. Trong giai đoạn 2006-2007, Trung Quốc chính thức đưa vào trang bị 4 máy bay AWACS KJ-2000.
Đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu tái khởi động chương trình phát triển máy bay AWACS để đáp ứng yêu cầu bắt buộc của một cuộc chiến tranh hiện đại. Trong giai đoạn 2006-2007, Trung Quốc chính thức đưa vào trang bị 4 máy bay AWACS KJ-2000.

KJ-2000 thiết kế sử dụng khung thân cơ sở máy bay vận tải hạng nặng Il-76MD (Nga sản xuất) và trang bị “mắt thần” radar quét mạng pha điện tử chủ động do Viện nghiên cứu công nghệ điện tử Nam Kinh phát triển.
KJ-2000 thiết kế sử dụng khung thân cơ sở máy bay vận tải hạng nặng Il-76MD (Nga sản xuất) và trang bị “mắt thần” radar quét mạng pha điện tử chủ động do Viện nghiên cứu công nghệ điện tử Nam Kinh phát triển.

Trong ảnh là “mắt thần” radar quét mạng pha được lắp đặt trên thân máy bay Il-76MD. Cách bố trí này tương tự các loại máy bay AWACS hiện đại trên thế giới.
Trong ảnh là “mắt thần” radar quét mạng pha được lắp đặt trên thân máy bay Il-76MD. Cách bố trí này tương tự các loại máy bay AWACS hiện đại trên thế giới.

Hệ thống radar mạng pha của KJ-2000 có khả năng theo dõi 60-100 mục tiêu cùng lúc ở cự ly tối đa 400km và dẫn đường cho hàng chục tiêm kích trong mọi điều kiện thời tiết, cả ban ngày và ban đêm tiến công mục tiêu.
Hệ thống radar mạng pha của KJ-2000 có khả năng theo dõi 60-100 mục tiêu cùng lúc ở cự ly tối đa 400km và dẫn đường cho hàng chục tiêm kích trong mọi điều kiện thời tiết, cả ban ngày và ban đêm tiến công mục tiêu.

Cuối những năm 1990, Trung Quốc tiếp tục khởi động dự án phát triển máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy đường không KJ-200. Mẫu thử nghiệm KJ-200 cất cánh lần đầu tháng 11/2001. Hiện nay có khoảng 5 chiếc KJ-200 phục vụ trong Không quân Trung Quốc.
Cuối những năm 1990, Trung Quốc tiếp tục khởi động dự án phát triển máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy đường không KJ-200. Mẫu thử nghiệm KJ-200 cất cánh lần đầu tháng 11/2001. Hiện nay có khoảng 5 chiếc KJ-200 phục vụ trong Không quân Trung Quốc.

Khác với KJ-2000 dùng khung thân cơ sở máy bay Nga, KJ-200 thiết kế dựa trên khung thân máy bay vận tải nội địa Y-8F600 do Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Sơn Tây chế tạo.
Khác với KJ-2000 dùng khung thân cơ sở máy bay Nga, KJ-200 thiết kế dựa trên khung thân máy bay vận tải nội địa Y-8F600 do Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Sơn Tây chế tạo.

Một điểm khác nữa với KJ-2000 về hệ thống radar mạng pha đặt trên máy bay, KJ-200 trang bị kiểu radar hình ống thay vì hình tròn. Hệ thống radar này được cho là thiết kế “sao chép” radar Ericsson PS-890 Erieye của Thụy Điển.
Một điểm khác nữa với KJ-2000 về hệ thống radar mạng pha đặt trên máy bay, KJ-200 trang bị kiểu radar hình ống thay vì hình tròn. Hệ thống radar này được cho là thiết kế “sao chép” radar Ericsson PS-890 Erieye của Thụy Điển.

Với 9 chiếc KJ-2000 và KJ-200 dường như vẫn chưa thỏa mãn tham vọng của Trung Quốc. Theo Want Daily, nước này đang có kế hoạch phát triển máy bay cảnh báo sớm thệ hệ mới để “vạch mặt” tiêm kích tàng hình F-22, F-35 của Mỹ.
Với 9 chiếc KJ-2000 và KJ-200 dường như vẫn chưa thỏa mãn tham vọng của Trung Quốc. Theo Want Daily, nước này đang có kế hoạch phát triển máy bay cảnh báo sớm thệ hệ mới để “vạch mặt” tiêm kích tàng hình F-22, F-35 của Mỹ.

Cũng theo một số nguồn tin, Trung Quốc đang phát triển máy bay cảnh báo sớm JZY-01 để trang bị cho tàu sân bay Liêu Ninh. JZY-01 được thiết kế trên khung thân cơ sở máy bay vận tải Y-7.
Cũng theo một số nguồn tin, Trung Quốc đang phát triển máy bay cảnh báo sớm JZY-01 để trang bị cho tàu sân bay Liêu Ninh. JZY-01 được thiết kế trên khung thân cơ sở máy bay vận tải Y-7.

Porubschik: vũ khí điện tử “đánh sập” radar Mỹ

Theo tờ Izvestia, Không quân Nga đã nhận được tổ hợp tác chiến điện tử có khả năng làm ngừng hoạt động một cách chính xác các đài radar và hệ thống điều khiển máy bay không người lái trong khi không làm ảnh hưởng đến các kênh liên lạc của chính nó.

Tin mới