Kẻ chinh phạt thành công cổ đại và chiến thuật vây thành

Để chiếm thành Tyre, Alexandros Đại đế đã biến cả một hòn đảo thành bán đảo.

Alexandros Đại đế là một trong những chỉ huy quân sự thành công nhất mọi thời đại. Đế chế của ông trải dài từ đông sang tây, suốt một dải đất từ Hy Lạp tới Ấn Độ - gần như toàn bộ thế giới mà người châu Âu khi đó biết đến.

Trong hành trình chinh phục đó, Tyre là một mục tiêu quan trọng. Vốn là một thành quốc ngoài khơi bờ biển Liban ngày nay, Tyre trở nên vô cùng thịnh vượng với thương mại hàng hải và việc sản xuất thuốc nhuộm tím từ loài ốc biển murex - vốn là một xa xỉ phẩm thời đó.

Người Tyre cũng đã sáng lập nên Carthage trên bờ biển Bắc Phi - một trong những siêu đế quốc hàng hải của thế giới cổ đại - đối thủ hùng mạnh của đế chế La Mã sau này.

Thành bang Tyre khi đó gồm 2 phần chính, gồm Tyre cổ nằm trên bờ biển Liban, và một phần thành phố mới nằm trên hòn đảo cách bờ 800 mét. Hòn đảo này được phòng thủ công phu với những bức tường thành dày và cao cùng tháp canh.

Ke chinh phat thanh cong co dai va chien thuat vay thanh

Sơ đồ đảo Tyre trong cuộc vây hãm của Alexanderos Đại đế.

Hòn đảo Tyre được coi là "bất khả xâm phạm", nhưng Alexandros Đại đế lại nghĩ khác.

Từ chối khuất phục

Vào năm 333 trước Công nguyên, Alexandros Đại đế đánh bại vua Ba Tư Darius III và nhanh chóng tiến quân về Ai Cập. Những thành phố bên bờ biển như Sidon và Byblos sớm đầu hàng vị vua trẻ.

Tuy nhiên, người Tyre tự tin rằng những bức tường vững chắc và vị trí cách bờ 800 mét sẽ bảo vệ họ trước bất kỳ đội quân nào. Được biết, những bức tường bao quanh Tyre cao tới 45 mét.

Ngoài ra, họ cũng tin tưởng vào sự hỗ trợ của Carthage - cựu thuộc địa và đồng minh hùng mạnh.

Một điều quan trọng cần được nhắc tới là mặc dù thất bại trong trận chiến, Darius III của Ba Tư vẫn chưa thua cả cuộc chiến. Trong khi đó, Tyre được sử dụng như một bến cảng của hải quân Ba Tư và đang đe dọa hậu quân của Alexandros Đại đế. Chính vì lý do ấy, nhà cầm quân Macedonia càng cần thu phục thành phố này càng sớm càng tốt.

Khi Alexandros Đại đế gửi thư chiêu hàng tới người Tyre, sứ giả của ông đã bị sát hại. Nổi cơn thịnh nộ, ông nói với người Tyre rằng họ có thể đang ở trên một hòn đảo, nhưng ông sẽ làm mọi cách biến nó thành một phần đất liền.

Trước sự ngỡ ngàng của người Tyre, Alexander bắt đầu cho quân xây 2 con đê khổng lồ dẫn tới đảo quốc này, nhằm đưa tháp vây thành tới đủ gần cho tầm bắn của cung thủ và máy bắn đá.

Ke chinh phat thanh cong co dai va chien thuat vay thanh-Hinh-2

Quân đội phe tấn công đang xây tháp vây và đê biển.

Công binh của Alexandros được lệnh xây 2 tòa tháp vây hãm cao tới 50 mét bằng gỗ, được bọc da sống để bảo vệ khỏi hỏa công. Trên đỉnh tháp được trang bị những chiếc nỏ khổng lồ ballista kèm máy bắn đá.

Quân Tyre phản công bằng cách thả một sà lan cũ chở những vật liệu dễ cháy như củi khô, lưu huỳnh, dầu và đâm nó vào 2 tòa tháp, đốt trụi chúng thành công. Ngoài ra, họ cũng cho chiến thuyền liên tục tấn công quấy rối công việc xây đê của quân Alexandros.

Ke chinh phat thanh cong co dai va chien thuat vay thanh-Hinh-3

Việc thu thập gỗ làm nguyên liệu ở những ngọn núi lân cận để xây tháp cũng gặp vô cùng nhiều khó khăn khi dân phu bị cướp bóc bởi các bộ lạc Ả Rập. Tuy nhiên chiến lược gia thiên tài không coi những khó khăn đó là trở ngại. Ông mở một cuộc chinh phạt vào vùng núi để tiêu diệt những bộ lạc quấy rối.

Tiếp đó, nhận ra cuộc công thành Tyre không thể thành công nếu thiếu ưu thế trên mặt biển, vị vua đi lên phía bắc về phía Byblos và Sidon để chuẩn bị một hải quân hùng hậu. Tại đây, ông có được một hạm đội 80 chiến thuyền gale với thủy thủ đoàn dày dạn kinh nghiệm.

Được tin về những chiến thắng quân sự liên tiếp của Đại đế trẻ tuổi, vua đảo Síp tiếp tục chi viện cho ông thêm 120 thuyền chiến cùng loại. Thêm 23 chiếc nữa tiếp tục được gửi đến từ các đồng minh Hy Lạp.

Cuộc chiến không cân sức

Bỗng nhiên, hạm đội của Alexandros từ con số 0 đã có tới 223 chiến thuyền, khóa chặt Tyre trên mặt biển. Trước lực lượng hải quân khổng lồ đó, các chiến thuyền của Tyre chỉ còn biết an phận nằm im trong bến cảng, được bảo vệ bởi những bức tường kiên cố.

Rất nhanh sau đó, con đê và 2 ngọn tháp vây đã hoàn thành. Quân đội của Đại đế liên tục oanh tạc thành phố, từ cả đất liền và hạm đội trên biển. Trong khi vây hãm, lực lượng tấn công sớm tìm ra một điểm yếu ở phía nam của dãy tường thành vững chãi.

Sau 7 tháng công thành, những bức tường của Tyre bị đột phá thành công. Quân Hy Lạp và Macedonia tràn vào thành, và phần còn lại là lịch sử. Hàng nghìn quân dân Tyre thiệt mạng hoặc bị bán làm nô lệ, cả thành phố bị san bằng thành bình địa. Trong khi đó, phe tấn công chỉ thiệt hại đâu đó 400 quân.

Ke chinh phat thanh cong co dai va chien thuat vay thanh-Hinh-4

Bản đồ thành phố Tyre hiện nay. Đường màu vàng là bờ biển ngày xưa và đường màu đỏ là hai con đường đê của cuộc vây hãm.

Bằng chiến thắng này, Basileus của Macedonia gửi một thông điệp tới toàn bộ các thành quốc thịnh vượng bên bờ Địa Trung Hải: "Theo ta và trở nên phồn vinh, hoặc chống lại và bị san bằng".

Sau khi Tyre trở thành một phần của lịch sử, Alexandros cho xây một trung tâm mậu dịch mới, là thành phố Alexandria của Ai Cập. Alexandria mau chóng vươn lên thành một kinh đô phồn vinh, nổi danh với Ngọn hải đăng Alexandria - một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại, và thư viện cùng tên - cũng là một trong những công trình quan trọng nhất thời đó.

10 “kiệt tác” quân sự của người Việt khiến thế giới choáng

Được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN, Cổ Loa là tòa thành cổ có cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt. Thành được xây theo hình trôn ốc 9 vòng, chu vi lên tới 9 dặm. Ngoài mỗi vòng thành đều có hào nước thông với sông Hoàng Giang, trở thành hào nước tự nhiên rất lợi hại. Tướng Triệu Đà của phương Bắc đã nhiều lần đánh Cổ Loa nhưng đều thất bại. Cuối cùng, Cổ Loa đã sụp đổ vì kế phản gián thâm độc của Triệu Đà.
Được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN, Cổ Loa là tòa thành cổ có cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt. Thành được xây theo hình trôn ốc 9 vòng, chu vi lên tới 9 dặm. Ngoài mỗi vòng thành đều có hào nước thông với sông Hoàng Giang, trở thành hào nước tự nhiên rất lợi hại. Tướng Triệu Đà của phương Bắc đã nhiều lần đánh Cổ Loa nhưng đều thất bại. Cuối cùng, Cổ Loa đã sụp đổ vì kế phản gián thâm độc của Triệu Đà.

Vào thời Âu Lạc, tướng quân Cao Lỗ đã sáng chế ra một loại vũ khí cực kỳ lợi hại là nỏ Liên châu, loại nỏ có khả năng bắn ra nhiều mũi tên liên tiếp. Loại nỏ này đã được thần thánh hóa với truyền thuyết thần Kim Quy đưa cho An Dương Vương một chiếc móng của mình để làm lẫy nỏ. Bởi vậy, dân gian thường gọi đây là nỏ thần. Khi xâm lược Âu Lạc, quân Triệu Đà đã hứng chịu thiệt hại nặng nề bởi các trận “mưa tên” từ nỏ Liên Châu và phải lui binh.
 Vào thời Âu Lạc, tướng quân Cao Lỗ đã sáng chế ra một loại vũ khí cực kỳ lợi hại là nỏ Liên châu, loại nỏ có khả năng bắn ra nhiều mũi tên liên tiếp. Loại nỏ này đã được thần thánh hóa với truyền thuyết thần Kim Quy đưa cho An Dương Vương một chiếc móng của mình để làm lẫy nỏ. Bởi vậy, dân gian thường gọi đây là nỏ thần. Khi xâm lược Âu Lạc, quân Triệu Đà đã hứng chịu thiệt hại nặng nề bởi các trận “mưa tên” từ nỏ Liên Châu và phải lui binh.

Gắn với các chiến thắng huyền thoại trên sông Bạch Đằng, các bãi cọc gỗ đã trở thành thứ vũ khí huyền thoại của người Việt. Lần đầu tiên, những chiếc cọc gỗ chôn vùi quân xâm lược là vào năm 938, khi vua Nam Hán phái thủy quân tràn vào nước ta qua ngả sông Bạch Đằng. Lần thứ 2 là vào năm 1288, khi danh tướng Trần Hưng Đạo áp dụng trận địa cọc ngầm của Ngô Quyền 350 năm trước để đại phá đạo thủy binh hùng mạnh của quân Nguyên.
 Gắn với các chiến thắng huyền thoại trên sông Bạch Đằng, các bãi cọc gỗ đã trở thành thứ vũ khí huyền thoại của người Việt. Lần đầu tiên, những chiếc cọc gỗ chôn vùi quân xâm lược là vào năm 938, khi vua Nam Hán phái thủy quân tràn vào nước ta qua ngả sông Bạch Đằng. Lần thứ 2 là vào năm 1288, khi danh tướng Trần Hưng Đạo áp dụng trận địa cọc ngầm của Ngô Quyền 350 năm trước để đại phá đạo thủy binh hùng mạnh của quân Nguyên.

Trong cuộc chiến chống Tống (thế kỷ 11), Lý Thường Kiệt đã biến sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) thành một phòng tuyến quân sự trọng yếu. Chiến lũy của phòng tuyến được xây bằng đất có đóng cọc tre dày nhiều tầng làm phên dậu. Dưới bãi sông bố trí hố chông ngầm. Quân Lý đóng trại trên suốt chiến tuyến, có thêm thủy binh phối hợp tạo nên một tuyến phòng thủ rất vững chắc. Sau hai đợt công phá không thành, quân Tống đã bị quân nhà Lý phản công và thảm bại trước phòng tuyến Như Nguyệt.
 Trong cuộc chiến chống Tống (thế kỷ 11), Lý Thường Kiệt đã biến sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) thành một phòng tuyến quân sự trọng yếu. Chiến lũy của phòng tuyến được xây bằng đất có đóng cọc tre dày nhiều tầng làm phên dậu. Dưới bãi sông bố trí hố chông ngầm. Quân Lý đóng trại trên suốt chiến tuyến, có thêm thủy binh phối hợp tạo nên một tuyến phòng thủ rất vững chắc. Sau hai đợt công phá không thành, quân Tống đã bị quân nhà Lý phản công và thảm bại trước phòng tuyến Như Nguyệt.

Thần cơ sang pháo là phát minh lớn về vũ khí của thời nhà Hồ, cũng như của toàn lịch sử dân tộc. Đây là thành quả sáng tạo của nhà sáng chế lỗi lạc Hồ Nguyên Trừng. Đây được coi là kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta, sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức công phá rất cao. Sau khi nhà Hồ thua trận trước quân Minh, vua nhà Minh đã bắt Hồ Nguyên Trừng về dạy cách chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội của mình.
 Thần cơ sang pháo là phát minh lớn về vũ khí của thời nhà Hồ, cũng như của toàn lịch sử dân tộc. Đây là thành quả sáng tạo của nhà sáng chế lỗi lạc Hồ Nguyên Trừng. Đây được coi là kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta, sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức công phá rất cao. Sau khi nhà Hồ thua trận trước quân Minh, vua nhà Minh đã bắt Hồ Nguyên Trừng về dạy cách chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội của mình.

Bên cạnh thần cơ sang pháo, Hồ Nguyên Trừng cũng chế tạo ra thuyền Cổ lâu – một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai tầng boong với hàng chục tay chéo và hai người điều khiển một mái chèo. Đáy thuyền được làm thêm một “đáy” nữa, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Cổ lâu thuyền vừa được dùng để tải lương, vừa sẵn sàng chiến đấu khi được trang bị súng Thần cơ đầy uy lực.
 Bên cạnh thần cơ sang pháo, Hồ Nguyên Trừng cũng chế tạo ra thuyền Cổ lâu – một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai tầng boong với hàng chục tay chéo và hai người điều khiển một mái chèo. Đáy thuyền được làm thêm một “đáy” nữa, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Cổ lâu thuyền vừa được dùng để tải lương, vừa sẵn sàng chiến đấu khi được trang bị súng Thần cơ đầy uy lực.

Người Việt sử dụng voi trong các cuộc chiến từ rất sớm, nhưng phải đến thời Tây Sơn, thứ vũ khí đặc biệt này mới đạt đến đỉnh cao. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã biến voi thành lực lượng hỏa lực cơ động, mang theo đại bác và hỏa pháo trên lưng, thực hiện nhiệm vụ của một phương tiện đột kích đáng sợ. Lực lượng này đã góp công lớn trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa đánh bại quân Thanh năm 1789.
 Người Việt sử dụng voi trong các cuộc chiến từ rất sớm, nhưng phải đến thời Tây Sơn, thứ vũ khí đặc biệt này mới đạt đến đỉnh cao. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã biến voi thành lực lượng hỏa lực cơ động, mang theo đại bác và hỏa pháo trên lưng, thực hiện nhiệm vụ của một phương tiện đột kích đáng sợ. Lực lượng này đã góp công lớn trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa đánh bại quân Thanh năm 1789.

Trước sự đe dọa của chiến thuyền phương Tây, Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiến hạm Định Quốc có sức mạnh tương đương dựa trên sự kết hợp kỹ thuật phương Tây và tay nghề của thợ đóng thuyền Đàng Trong. Đây thực sự là những pháo đài di động trên biển với khả năng chở voi chiến và trang bị 50 - 60 khẩu đại bác hạng nặng. Vào thời điểm cao trào, thủy quân Tây Sơn có gần 20 “pháo đài” như vậy.
 Trước sự đe dọa của chiến thuyền phương Tây, Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiến hạm Định Quốc có sức mạnh tương đương dựa trên sự kết hợp kỹ thuật phương Tây và tay nghề của thợ đóng thuyền Đàng Trong. Đây thực sự là những pháo đài di động trên biển với khả năng chở voi chiến và trang bị 50 - 60 khẩu đại bác hạng nặng. Vào thời điểm cao trào, thủy quân Tây Sơn có gần 20 “pháo đài” như vậy.

Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ Bắc vào Nam của lực lượng Giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quân Mỹ - Sài Gòn đã đánh phá bằng nhiều chiến dịch bộ binh, không quân và rải chất độc màu da cam để làm trụi lá cây, dùng chiến tranh hóa học tạo mưa và bùn để phá đường, nhưng không thể nào cắt đứt huyết mạch giao thông này. Tuyến đường huyền thoại đã góp một vai trò rất quan trọng cho thắng lợi của nhân dân VN.
 Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ Bắc vào Nam của lực lượng Giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quân Mỹ - Sài Gòn đã đánh phá bằng nhiều chiến dịch bộ binh, không quân và rải chất độc màu da cam để làm trụi lá cây, dùng chiến tranh hóa học tạo mưa và bùn để phá đường, nhưng không thể nào cắt đứt huyết mạch giao thông này. Tuyến đường huyền thoại đã góp một vai trò rất quan trọng cho thắng lợi của nhân dân VN.

Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất, được các chiến sĩ giải phóng xây dựng tại điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh. Toàn hệ thống địa đạo có chiều dài 200km với 3 tầng sâu khác nhau, chiều sâu từ 3m đến 12m, gồm nhiều phòng chức năng để đảm bảo mọi hoạt động sống trong lòng đất. Bên trên địa đạo là rất nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông... Quân đội Mỹ - Sài Gòn đã liên tục tấn công vào hệ thống địa đạo, nhưng không đạt được bất cứ thành công nào.
 Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất, được các chiến sĩ giải phóng xây dựng tại điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh. Toàn hệ thống địa đạo có chiều dài 200km với 3 tầng sâu khác nhau, chiều sâu từ 3m đến 12m, gồm nhiều phòng chức năng để đảm bảo mọi hoạt động sống trong lòng đất. Bên trên địa đạo là rất nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông... Quân đội Mỹ - Sài Gòn đã liên tục tấn công vào hệ thống địa đạo, nhưng không đạt được bất cứ thành công nào. 

8 thi hài người nổi tiếng “chu du thiên hạ”

(Kiến Thức) - Vì một số lý do, bộ phận sinh dục của hoàng đế Pháp Napoleon Bonaparte lưu lạc khắp nơi từ Anh, Pháp rồi đến Mỹ.

Alexandros Đại đế - vị vua xứ Macedonia được đánh giá là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất lịch sử. Khi qua đời vào năm 323 TCN ở tuổi 33, thi thể của Alexandros được đưa đến thành phố Ai Cập cổ Memphis và yên nghỉ tại đó trong suốt hai thập kỷ. Sau đó, thi hài của ông được chuyển đến Alexandria.
Alexandros Đại đế - vị vua xứ Macedonia được đánh giá là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất lịch sử. Khi qua đời vào năm 323 TCN ở tuổi 33, thi thể của Alexandros được đưa đến thành phố Ai Cập cổ Memphis và yên nghỉ tại đó trong suốt hai thập kỷ. Sau đó, thi hài của ông được chuyển đến Alexandria. 
Đến cuối thế kỷ thứ III, thi hài của ông một lần nữa được khai quật và chuyển đến ngôi mộ khác. Kể từ khi chuyển đến nơi an nghỉ mới, nhiều hoàng đế La Mã như Julius Caesar, Caligula và Augustus thường xuyên lui tới chào hỏi ông. Có một lần, khi hoàng đế Augustus hôn thi hài của Alexandros Đại đế đã vô tình làm rơi mất xương mũi của nhà quân sự tài ba.
 Đến cuối thế kỷ thứ III, thi hài của ông một lần nữa được khai quật và chuyển đến ngôi mộ khác. Kể từ khi chuyển đến nơi an nghỉ mới, nhiều hoàng đế La Mã như Julius Caesar, Caligula và Augustus thường xuyên lui tới chào hỏi ông. Có một lần, khi hoàng đế Augustus hôn thi hài của Alexandros Đại đế đã vô tình làm rơi mất xương mũi của nhà quân sự tài ba.

Đọc nhiều nhất

Tin mới