Giải mã bản khoán ước cổ nhất miền Trung

Hết chìm trong biển lũ, lại bị mưa bom bão đạn cày xới, thế nhưng trên mảnh đất Phú Kinh đã và đang lưu giữ một báu vật có một không hai.

Bản Khoán ước cổ nhất này, là chứng tích cho một giai đoạn lịch sử đã qua của dân tộc. Từng được coi là kim chỉ nam cho người dân Phú Kinh, biết sống với những lệ làng và duy trì, gìn giữ nó.

Bảo vật biết “tránh” mưa bom, bão đạn?!

Tương truyền, những người đầu tiên "cắm đất lập nhà" - tạo cơ sở cho sự ra đời của làng là dòng họ Trần. Tuy nhiên, nơi đây thời tiết vốn khắc nghiệt, thiên tai quanh năm nên buộc dòng họ Trần này phải rời đi, tìm nơi khác lập nghiệp. Sau đó, các dòng họ Lê, Nguyễn, Cái, Dương, Phạm, Hồ, Hoàng, Mai và hai họ Phan bắt đầu đến đây quy tụ, mở mang đồn điền, dựng xóm lập làng. Và để tưởng nhớ công lao của họ Trần, dân làng đã dựng miếu phụng thờ và suy tôn là họ khai căn của làng.

Các bậc cao niên diễn giải về nội dung bản khoán ước của Làng.
Các bậc cao niên diễn giải về nội dung bản khoán ước của Làng. 

Qua bao biến động của lịch sử, người dân Phú Kinh vẫn giữ được nét văn hoá làng xã rất đặc trưng của làng quê Việt. Đó là do sự đóng góp không nhỏ của bản Khoán ước - báu vật lịch sử, kim chỉ nam cho người dân Phú Kinh... Các bậc cao niên trong làng kể lại: Bản Khoán ước làng Phú Kinh do tập thể viên chức, hương lão của làng soạn thảo vào thượng tuần tháng 6 năm Giáp Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng, và được khắc bằng chữ Hán trên một tấm gỗ lim dài 2,4m. Khoán ước Phú Kinh được cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa thông tin) công nhận là một trong 10 bảo vật quốc gia quý hiếm của tỉnh Quảng Trị.

Theo ông Lê Đình Huy (nguyên chi hội trưởng Chi hội người cao tuổi làng Phú Kinh) cho biết: "Từ kháng chiến chống Pháp đến trước năm 1986, người làng đã thấy tấm gỗ lim khắc đầy chữ Hán - Nôm, nhưng không ai biết nó ghi chép gì. Tuy nhiên, như có một mối lương duyên đã được định trước thế nên bao thế hệ dân làng đều rỉ tai nhau để ra sức cất giữ nó". Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, bản Khoán ước được đặt ở vị trí trung tâm, trang trọng nhất của miếu khai căn. Trong chiến tranh, tất cả đình chùa miếu mạo trong làng gần như bị cày nát, mạng người giữ đã khó huống hồ một "tấm gỗ vô tri vô giác".

Mãi đến sau giải phóng, khi tìm về lại nơi "chôn rau cắt rốn", người dân Phú Kinh vô tình đào được "tấm gỗ khắc văn tự cổ" ẩn dưới lớp đất đá trên nền ngôi đình cũ. Chừng ấy năm giữa mưa bom bão đạn, mọi thứ đều vỡ vụn, duy chỉ có bản Khoán ước vẫn nằm đó "ung dung", thân hình loang lổ những vết đạn, nhưng từng chữ khắc trên Khoán ước vẫn không hề suy chuyển.

Trước điều kỳ lạ này, người dân Phú Kinh cho là tổ tiên muốn giữ lại bảo vật của làng nên càng quyết tâm bảo vệ bản Khoán ước cẩn thận hơn. Họ xây dựng lại miếu khai căn và để Khoán ước ở đây, vào mùa lũ, họ gác bản Khoán ước lên dàn đòn tay của miếu để tránh nước lũ cuốn đi mất. Dù cẩn thận là thế, nhưng một số năm nước lũ dâng cao quá, bản Khoán ước vẫn bị "dìm" trong biển lũ...

Bản khoán ước loang lổ vết đạn.
 Bản khoán ước loang lổ vết đạn.

Tâm nguyện của người trông coi “di sản” của tiền nhân

Đọc bản Khoán ước của làng Phú Kinh do các nhà nghiên cứu của Khoa Sử (Đại học Khoa học Huế) dịch thuật, những người dân trong làng không khỏi ngạc nhiên và tự hào: "Chúng tôi không dám tin, ở cái vùng lầy, nước độc như Phú Kinh, lại có những con người rất thông minh, học cao hiểu rộng đến như thế. Thật không thể coi thường quy định mà ở thời đó người ta vẫn coi là "lệ làng". Bởi nó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay" - ông Huy chia sẻ. Nội dung bản Khoán ước bao gồm nhiều điều khoản, đề cập đến nhiều mặt đời sống của làng quê Phú Kinh thuở đó.

Sửng sốt những “quy định pháp luật” của người xưa

Bản Khoán ước đề cập đến hai nội dung quan trọng nhất, một là: Phân chia một phần ruộng đất công dưới hình thức "vĩnh nghiệp" nhằm mục đích khuyến nông và đảm bảo đời sống cho mọi người dân trong làng, đặc biệt là chú trọng đến các đối tượng "mẹ goá con côi" hay "già cả, tật nguyền". Qua đó tạo ra sự dân chủ đồng thời quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân trong việc xây dựng, giữ gìn làng xóm. Hai là, quy định những điều khoản để giáo dục cộng đồng: Khuyên người dân không được buôn gian bán lận hay theo đòi những kẻ chuyên tụ tập cờ bạc, rượu chè say sưa, lãng quên việc học hỏi để nâng cao nghề nghiệp căn bản của mình và mang lại tiếng xấu cho làng. Trong mối quan hệ ứng xử xã hội phải luôn biết đoàn kết, thuận hoà, kính trên nhường dưới, biết giữ thân mình trong sạch, không làm những điều chỉ có lợi nhưng lại hại đến người.

Khoán ước làng Phú Kinh là một "báu vật" của làng, là sản phẩm tinh thần thể hiện đầy đủ nhất một thực tế là đời sống làng quê Phú Kinh lúc đó đã khá phát triển về cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Trong suốt thời gian biến động, thăng trầm của lịch sử, làng Phú Kinh vẫn nề nếp và duy trì được những phong tục tập quán vốn có, vừa theo đúng khuôn mẫu, tư tưởng của chỉnh thể đương thời đó là nhờ bản Khoán ước. Sự ra đời của bản Khoán ước như một bản "cương lĩnh" để dân làng theo đó "tu thân, tề gia".

Chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Hữu Yêm (75 tuổi), là người được dân làng Phú Kinh tín nhiệm giao trọng trách giữ bản Khoán ước. "Tôi giữ Khoán ước của làng kiêm miếu khai căn được 15 năm rồi, nhiệm vụ của tôi là lau chùi, quét dọn và ngày rằm, ba mươi, mồng một đến thắp hương".

Khi được hỏi về sự quan tâm của xã, huyện thì ông chia sẻ: "Khi nào có báo, đài hay tỉnh về thăm thì mới thấy họ xuống, còn lại thì nó vẫn nằm im ỉm ở đó thôi". Hơn 15 năm làm công việc thầm lặng, không lương bổng, trợ cấp, nhưng ông Yêm vẫn vui vẻ khi được hỏi về công việc này: "Đây là báu vật của làng, được dân làng tin tưởng, giao trách nhiệm này tôi cảm thấy tự hào lắm, đến khi nào không còn sức lực nữa thì tôi mới thôi công việc này".

Và không riêng gì ông Yêm, ý thức đối với việc giữ gìn bản Khoán ước tồn tại trong mỗi người dân Phú Kinh. Cách đây hơn 10 năm, Bảo tàng Quảng Trị đã từng xuống tận làng "thương lượng" với mục đích có cho được món báu vật này. Họ đưa ra "cái giá" là xây cho làng một trường mẫu giáo hai tầng - một cái giá vô cùng lớn trong thời điểm đó đối với một ngôi làng nghèo. Tuy nhiên, cuộc "thương lượng" đã không thành công. Dân làng Phú Kinh đã cùng nhau họp lại bàn bạc và đi tới quyết định: Nhất quyết phải giữ lại bản Khoán ước. Từ đó đến nay, dân làng dựng bản Khoán ước lên, nhưng chôn sâu dưới nền đất 20cm, để tránh bị bọn săn cổ vật trộm mất.

Kỳ công “giải mật” bản Khoán ước

Đến năm 1986, trong một đợt khảo sát điền dã của đoàn Khoa Sử, đại học Tổng hợp Huế (nay là trường đại học Khoa học Huế), các nhà nghiên cứu mới phát hiện và tiến hành dịch thuật bản Khoán ước. Nhưng năm lần bảy lượt các nhà nghiên cứu về làng tiến hành dịch đều không thành do bản Khoán ước phức hợp cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Phải đến khi nhóm điền dã sao chụp nội dung văn tự trên bản Khoán ước đưa vào Huế, để có thời gian nghiên cứu thêm thì bí mật trên Khoán ước mới được hé lộ. Đúng như những gì người dân Phú Kinh tiên đoán, nội dung bản Khoán ước gần như là một cuốn "biên niên sử" của làng.

Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng 11 cổ vật quốc gia

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, mang tính khái quát cao, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân, khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc nhất định thắng lợi.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, mang tính khái quát cao, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân, khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc nhất định thắng lợi.
Cuốn Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam ở thời điểm đó và các giai đoạn tiếp theo. Những thắng lợi huy hoàng của dân tộc ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử mà đất nước đạt được trong hơn 20 năm đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đều bắt nguồn và gây dựng từ những giá trị lý luận cách mạng và khoa học của tác phẩm Đường Kách mệnh.
 Cuốn Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam ở thời điểm đó và các giai đoạn tiếp theo. Những thắng lợi huy hoàng của dân tộc ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử mà đất nước đạt được trong hơn 20 năm đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đều bắt nguồn và gây dựng từ những giá trị lý luận cách mạng và khoa học của tác phẩm Đường Kách mệnh.
"Ngục Trung nhật ký" là một trong những di cảo quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh; gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Noài những giá trị lịch sử, tập thơ còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tâm hồn cao thượng và nhân ái của một người cộng sản suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
 "Ngục Trung nhật ký" là một trong những di cảo quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh; gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Noài những giá trị lịch sử, tập thơ còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tâm hồn cao thượng và nhân ái của một người cộng sản suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Trống đồng Cảnh Thịnh không chỉ lạ về hoa văn mà đặc biệt hơn là được tạo ra ở thời kỳ mà tưởng như kỹ thuật đúc đã thất truyền. Một giá trị đặc biệt của trống là phần tư liệu – một bài minh dài 272 chữ được khắc trên thân trống. Nội dung của bài minh nói về bà Nguyễn Thị Lộc, là vợ của Tổng Thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời Vua Lê Ý Tông (1736) góp công lập chùa Linh Ứng (nay là Chùa Nành), cùng những lời dẫn đến việc đúc trống để thờ cúng, tu bổ chùa. Ngoài ra minh văn còn cho biết trống được đúc vào ngày lành tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Vua Nguyễn Quang Toản (1800), xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội).
 Trống đồng Cảnh Thịnh không chỉ lạ về hoa văn mà đặc biệt hơn là được tạo ra ở thời kỳ mà tưởng như kỹ thuật đúc đã thất truyền. Một giá trị đặc biệt của trống là phần tư liệu – một bài minh dài 272 chữ được khắc trên thân trống. Nội dung của bài minh nói về bà Nguyễn Thị Lộc, là vợ của Tổng Thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời Vua Lê Ý Tông (1736) góp công lập chùa Linh Ứng (nay là Chùa Nành), cùng những lời dẫn đến việc đúc trống để thờ cúng, tu bổ chùa. Ngoài ra minh văn còn cho biết trống được đúc vào ngày lành tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Vua Nguyễn Quang Toản (1800), xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội).
Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là bảo vật được tìm thấy trong con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, nằm trong số những hiện vật độc bản. Mặc dù nghề gốm Việt Nam có rất nhiều các tuyệt tác, nhưng, so với nhưng hiện vật được ta lưu giữ và biết tới thuộc các bộ sưu tập trong nước, đây thực sự là Bảo vật quốc gia. Giá trị của hiện vật không chỉ xứng đáng với danh hiệu trên về mặt thời gian, và kỹ nghệ làm gốm. Những nét vẽ thiên nga mang đậm hồn Việt chính là điểm khẳng định giá trị của chiếc bình.
 Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là bảo vật được tìm thấy trong con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, nằm trong số những hiện vật độc bản. Mặc dù nghề gốm Việt Nam có rất nhiều các tuyệt tác, nhưng, so với nhưng hiện vật được ta lưu giữ và biết tới thuộc các bộ sưu tập trong nước, đây thực sự là Bảo vật quốc gia. Giá trị của hiện vật không chỉ xứng đáng với danh hiệu trên về mặt thời gian, và kỹ nghệ làm gốm. Những nét vẽ thiên nga mang đậm hồn Việt chính là điểm khẳng định giá trị của chiếc bình.
Môn hạ sảnh ấn được coi là quả ấn đồng cổ nhất có niên đại rõ ràng nhất ở Việt Nam. Cổ vật này có kích thước: Cao: 8,5cm; Dài: 7 cm; Rộng: 7 cm; trọng lượng: 1,4kg. Ấn được đúc vào ngày 23/5 năm Long Khánh thứ 5 đời vua Trần Duệ Tông (1377). Chiếc ấn đồng Môn Hạ Sảnh ấn đúc vào năm 1377 được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình bắt đầu từ đời Trần Phế Đế về sau. Môn Hạ Sảnh ấn là chiếc ấn đồng có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần.
 Môn hạ sảnh ấn được coi là quả ấn đồng cổ nhất có niên đại rõ ràng nhất ở Việt Nam. Cổ vật này có kích thước: Cao: 8,5cm; Dài: 7 cm; Rộng: 7 cm; trọng lượng: 1,4kg. Ấn được đúc vào ngày 23/5 năm Long Khánh thứ 5 đời vua Trần Duệ Tông (1377). Chiếc ấn đồng Môn Hạ Sảnh ấn đúc vào năm 1377 được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình bắt đầu từ đời Trần Phế Đế về sau. Môn Hạ Sảnh ấn là chiếc ấn đồng có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần.
Cách đây hơn 2000 năm, một vị già làng và đồ vật của ông ta đã được an táng tại khu mộ ở Lạch Trường, bên bờ biển Đông. Sau hàng nghìn năm, khi các nhà khảo cổ tìm thấy ngôi mộ này cùng với “Cây đèn hình người quỳ” đã mang tới câu hỏi lớn về nguồn gốc, ý nghĩa của nó. Đã có nhiều nghiên cứu, nhiều lời lý giải, nhưng, “Cây đèn hình người quỳ” vẫn mang ánh hào quang của bí ẩn, khó hiểu như nụ cười của người đàn ông trên thân đèn.
Cách đây hơn 2000 năm, một vị già làng và đồ vật của ông ta đã được an táng tại khu mộ ở Lạch Trường, bên bờ biển Đông. Sau hàng nghìn năm, khi các nhà khảo cổ tìm thấy ngôi mộ này cùng với “Cây đèn hình người quỳ” đã mang tới câu hỏi lớn về nguồn gốc, ý nghĩa của nó. Đã có nhiều nghiên cứu, nhiều lời lý giải, nhưng, “Cây đèn hình người quỳ” vẫn mang ánh hào quang của bí ẩn, khó hiểu như nụ cười của người đàn ông trên thân đèn.
Khối tượng hai người cõng nhau thổi khèn thuộc dòng tượng tròn, được đánh giá là sinh động nhất trong những khối tượng đã được phát hiện từ trước đến nay. Tượng có chiều cao 8,5cm và rộng: 9,5cm do nhà khảo cổ học người Thụy Điển Olov. Janse phát hiện trong một ngôi mộ gạch lớn. Toàn khối tượng tả thực với nhiều chi tiết khá phức tạp. Tượng là hình ảnh về sinh hoạt âm nhạc dân tộc, được đánh giá là sinh động nhất của nghệ thuật biểu diễn, phản ánh hiện thực nhất trong số những khối tượng được các nhà nghiên cứu phát hiện từ trước đến nay.
 Khối tượng hai người cõng nhau thổi khèn thuộc dòng tượng tròn, được đánh giá là sinh động nhất trong những khối tượng đã được phát hiện từ trước đến nay. Tượng có chiều cao 8,5cm và rộng: 9,5cm do nhà khảo cổ học người Thụy Điển Olov. Janse phát hiện trong một ngôi mộ gạch lớn. Toàn khối tượng tả thực với nhiều chi tiết khá phức tạp. Tượng là hình ảnh về sinh hoạt âm nhạc dân tộc, được đánh giá là sinh động nhất của nghệ thuật biểu diễn, phản ánh hiện thực nhất trong số những khối tượng được các nhà nghiên cứu phát hiện từ trước đến nay.
Thạp đồng Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất từ trước tới nay. Trong thạp có chứa một thạp đồng nhỏ có mảnh gỗ mục đậy lên trên, bên cạnh có một số cục xỉ đồng và một ít xương người. Cho đến nay ngoài thạp Đào Thịnh, chưa có một chiếc thạp nào có được kích thước, kiểu dáng và đề tài trang trí độc đáo tiêu biểu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Thạp đồng Đào Thịnh được coi như một hiện vật nghệ thuật cổ độc nhất vô nhị bởi nó chính là bản thông điệp của quá khứ gửi cho thế hệ mai sau về cuộc sống vật chất và quan niệm phồn thực của cư dân Đông Sơn khi xã hội chưa có chữ viết.
Thạp đồng Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất từ trước tới nay. Trong thạp có chứa một thạp đồng nhỏ có mảnh gỗ mục đậy lên trên, bên cạnh có một số cục xỉ đồng và một ít xương người. Cho đến nay ngoài thạp Đào Thịnh, chưa có một chiếc thạp nào có được kích thước, kiểu dáng và đề tài trang trí độc đáo tiêu biểu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Thạp đồng Đào Thịnh được coi như một hiện vật nghệ thuật cổ độc nhất vô nhị bởi nó chính là bản thông điệp của quá khứ gửi cho thế hệ mai sau về cuộc sống vật chất và quan niệm phồn thực của cư dân Đông Sơn khi xã hội chưa có chữ viết.
Vào khoảng tháng 3 năm 1937, trong khi đào mương, nhân dân xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Hà Nội) đã tìm thấy trống Hoàng Hạ ở độ sâu 1,5m trong lòng đất. Trống đồng Hoàng Hạ là loại trống H1 điển hình, kiểu dáng, đề tài hoa văn trang trí độc đáo còn khá nguyên vẹn. Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn là một tiêu bản đặc biệt được xếp vào cùng nhóm trống đồng Ngọc Lũ, nhóm trống đặc trưng tiêu biểu nhất.
Vào khoảng tháng 3 năm 1937, trong khi đào mương, nhân dân xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Hà Nội) đã tìm thấy trống Hoàng Hạ ở độ sâu 1,5m trong lòng đất. Trống đồng Hoàng Hạ là loại trống H1 điển hình, kiểu dáng, đề tài hoa văn trang trí độc đáo còn khá nguyên vẹn. Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn là một tiêu bản đặc biệt được xếp vào cùng nhóm trống đồng Ngọc Lũ, nhóm trống đặc trưng tiêu biểu nhất.
Trống Ngọc Lũ được phát hiện vào khoảng năm 1893 - 1894, tạihữu ngạn sông Hồng. Đây là chiếc trống có kích thước lớn, hình dáng cân đối và đặc biệt có hoa văn trang trí đẹp nhất trong số những trống Đông Sơn được biết.
Trống Ngọc Lũ được phát hiện vào khoảng năm 1893 - 1894, tạihữu ngạn sông Hồng. Đây là chiếc trống có kích thước lớn, hình dáng cân đối và đặc biệt có hoa văn trang trí đẹp nhất trong số những trống Đông Sơn được biết.











Ngắm cổ vật ngàn tuổi của “Hoàng thành Yên Bái”

Khu “Hoàng thành Yên Bái” toạ lạc trên đỉnh đồi Hắc Y thuộc xã Tân Lĩnh - Lục Yên, cách thành phố Yên Bái 80 km. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định đây là sự xuất hiện hiếm hoi của một tháp Trần sớm, nằm ở vùng biên giới nước Đại Việt xưa. Trong ảnh là một đầu phượng còn nguyên vẹn được khai quật tại khu di tích "Hoàng thành Yên Bái".
 Khu “Hoàng thành Yên Bái” toạ lạc trên đỉnh đồi Hắc Y thuộc xã Tân Lĩnh - Lục Yên, cách thành phố Yên Bái 80 km. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định đây là sự xuất hiện hiếm hoi của một tháp Trần sớm, nằm ở vùng biên giới nước Đại Việt xưa. Trong ảnh là một đầu phượng còn nguyên vẹn được khai quật tại khu di tích "Hoàng thành Yên Bái".
Tháp có ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc Chăm và ảnh hưởng của đạo Lão Trung Quốc trong kiến trúc Phật Giáo Việt Nam… Đây còn là tháp Trần duy nhất được phát hiện từ trước đến nay có dạng mái cong, là ngọn tháp duy nhất có bệ hoa sen trên một số tầng tháp và ở phần chân tháp, bên ngoài phần tường chịu lực là lớp bệ hoa văn đất nung viền quanh chân tháp.
 Tháp có ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc Chăm và ảnh hưởng của đạo Lão Trung Quốc trong kiến trúc Phật Giáo Việt Nam… Đây còn là tháp Trần duy nhất được phát hiện từ trước đến nay có dạng mái cong, là ngọn tháp duy nhất có bệ hoa sen trên một số tầng tháp và ở phần chân tháp, bên ngoài phần tường chịu lực là lớp bệ hoa văn đất nung viền quanh chân tháp.
Hoa văn trang trí thân tháp khá dày đặc, phong phú về loại hình, kỹ thuật tạo văn hoa trong từng tầng tháp cả bệ thủy ba (bệ hoa văn sóng nước) cũng được cách điệu rất nhiều. Đặc biệt là hoa văn được tạo trên đất nung và cả những khối vật liệu đất nung rất lớn nhưng hoa văn rất tinh xảo. Sự ảnh hưởng của yếu tố Chăm được thể hiện rõ nhất là những lá đề hoa văn hình chim phượng trang trí trên tháp.
 Hoa văn trang trí thân tháp khá dày đặc, phong phú về loại hình, kỹ thuật tạo văn hoa trong từng tầng tháp cả bệ thủy ba (bệ hoa văn sóng nước) cũng được cách điệu rất nhiều. Đặc biệt là hoa văn được tạo trên đất nung và cả những khối vật liệu đất nung rất lớn nhưng hoa văn rất tinh xảo. Sự ảnh hưởng của yếu tố Chăm được thể hiện rõ nhất là những lá đề hoa văn hình chim phượng trang trí trên tháp.
Những lá đề này không chỉ khá giống nhau về hình thức, cách chế tác mà nó còn khá tương đồng về cách bài trí lá đề ở các tháp Chăm. Ảnh hưởng của đạo Lão thì cơ bản được thể hiện dạng hoa văn hình sừng bò vắt chéo nhau như chữ “X” hay hoa văn cúc dây thường được đạo Lão dùng rất phổ biến tượng trưng cho sự trường tồn.
 Những lá đề này không chỉ khá giống nhau về hình thức, cách chế tác mà nó còn khá tương đồng về cách bài trí lá đề ở các tháp Chăm. Ảnh hưởng của đạo Lão thì cơ bản được thể hiện dạng hoa văn hình sừng bò vắt chéo nhau như chữ “X” hay hoa văn cúc dây thường được đạo Lão dùng rất phổ biến tượng trưng cho sự trường tồn.
Hàng nghìn hiện vật được khai quật tại di tích Hắc Y. Những dấu tích còn lại được các nhà nghiên cứu cho rằng tháp nằm trong vùng Thu vật, là khu vực điền trang thái ấp của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật - người được triều đình giao nhiệm vụ trấn ải vùng biên cương phía Bắc nước Đại Việt, nên tác giả của công trình nghệ thuật kiến trúc Phật giáo độc đáo này rất có thể chính là của Trần Nhật Duật.
 Hàng nghìn hiện vật được khai quật tại di tích Hắc Y. Những dấu tích còn lại được các nhà nghiên cứu cho rằng tháp nằm trong vùng Thu vật, là khu vực điền trang thái ấp của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật - người được triều đình  giao nhiệm vụ trấn ải vùng biên cương phía Bắc nước Đại Việt, nên tác giả của công trình nghệ thuật kiến trúc Phật giáo độc đáo này rất có thể chính là của Trần Nhật Duật.
Sử cũ nói rằng, Trần Nhật Duật là người thạo nhiều ngoại ngữ, quan hệ bang giao rộng rãi và kiệt xuất ở nhiều lĩnh vực. Với người Chăm, khi còn ở trong triều, ông quan hệ rất tốt với các sứ thần Vương quốc Chăm Pa và rất thân thiện với người Chăm trong làng Chăm ở Hà Nội. Trần Nhật Duật là người theo đạo Phật nhưng rất am hiểu đạo Lão, nên ảnh hưởng của đạo Lão ở tháp Hắc Y qua hoa văn trang trí, lực chọn phong thủy… cũng không có gì khó hiểu.
 Sử cũ nói rằng, Trần Nhật Duật là người thạo nhiều ngoại ngữ, quan hệ bang giao rộng rãi và kiệt xuất ở nhiều lĩnh vực. Với người Chăm, khi còn ở trong triều, ông quan hệ rất tốt với các sứ thần Vương quốc Chăm Pa và rất thân thiện với người Chăm trong làng Chăm ở Hà Nội. Trần Nhật Duật là người theo đạo Phật nhưng rất am hiểu đạo Lão, nên ảnh hưởng của đạo Lão ở tháp Hắc Y qua hoa văn trang trí, lực chọn phong thủy… cũng không có gì khó hiểu.
Qua nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện thấy tại quần thể di tích này không ít hiện vật có hình dạng và niên đại giống với những hiện vật được khai quật ở Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội như: gạch, ngói, đá chân cột, lá đề, sen, cúc..., tượng đất nung linh vật các loại: đầu rồng, phượng..., cùng đồ thờ, đồ gốm sứ... Các nhà khoa học lịch sử nhận định, đây là một quần thể kiến trúc Phật giáo quy mô lớn, như một Trung tâm văn hóa Phật giáo thời bấy giờ và được ví như là “Hoàng thành” của Yên Bái.
 Qua nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện thấy tại quần thể di tích này không ít hiện vật có hình dạng và niên đại giống với những hiện vật được khai quật ở Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội như: gạch, ngói, đá chân cột, lá đề, sen, cúc..., tượng đất nung linh vật các loại: đầu rồng, phượng..., cùng đồ thờ, đồ gốm sứ... Các nhà khoa học lịch sử nhận định, đây là một quần thể kiến trúc Phật giáo quy mô lớn, như một Trung tâm văn hóa Phật giáo thời bấy giờ và được ví như là “Hoàng thành” của Yên Bái.
Những hiện vật có niên đại và hình dạng giống hiện vật được khai quật tại Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
 Những hiện vật có niên đại và hình dạng giống hiện vật được khai quật tại Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.

Tháng 3/1997, GS Hà Văn Tấn, Viện trưởng Viện Khảo cổ học dẫn đầu đoàn cán bộ của Viện lên khảo cứu di tích đồi Hắc Y và Bến Lăn, có cuộc làm việc với lãnh đạo Huyện Lục Yên, sau đó về làm việc với Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái.
 Tháng 3/1997, GS  Hà Văn Tấn, Viện trưởng Viện Khảo cổ học dẫn đầu đoàn cán bộ của Viện lên khảo cứu di tích đồi Hắc Y và Bến Lăn, có cuộc làm việc với lãnh đạo Huyện Lục Yên, sau đó về làm việc với Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái.
Trong các buổi làm việc này, GS đều đánh giá cao giá trị phát hiện trên và cho rằng đây là một di tích Phật giáo thời Trần hiếm có, cần được bảo vệ và tổ chức khai quật.
 Trong các buổi làm việc này, GS đều đánh giá cao giá trị phát hiện trên và cho rằng đây là một di tích Phật giáo thời Trần hiếm có, cần được bảo vệ và tổ chức khai quật.
Dấu tích văn hóa Chăm qua qua cách bài trí hình lá đề.
 Dấu tích văn hóa Chăm qua qua cách bài trí hình lá đề.
 
 
Những hiện vật nghìn tuổi còn nguyên vẹn.
 Những hiện vật nghìn tuổi còn nguyên vẹn.
 
Hoa văn điêu khắc tinh xảo.
 Hoa văn điêu khắc tinh xảo.















5 băng đảng khét tiếng một thời

(Kiến Thức) - Là những samurai lập dị, băng nhóm Kabukimono khét tiếng một thời thường diện trang phục kỳ quặc và có thú tiêu khiển khủng khiếp - tùng xẻo người. 


Trước khi xảy ra chiến tranh thế giới 1, Les Apache là một băng đảng đường phố hoạt động mạnh ở Paris, Pháp. Băng nhóm này được gọi là Apache vì chúng vô cùng hung dữ, chiến đấu quyết liệt trong cuộc tấn công một cảnh sát. Khi đó, người dân mỗi lần nghe đến những tội ác của chúng đều kinh hồn bạt vía.
Trước khi xảy ra chiến tranh thế giới 1, Les Apache là một băng đảng đường phố hoạt động mạnh ở Paris, Pháp. Băng nhóm này được gọi là Apache vì chúng vô cùng hung dữ, chiến đấu quyết liệt trong cuộc tấn công một cảnh sát. Khi đó, người dân mỗi lần nghe đến những tội ác của chúng đều kinh hồn bạt vía.
Những thành viên trong băng đảng Les Apache được đánh giá là những kẻ rất biết ăn mặc, khiến mọi người phải chú ý tới mình. Chúng thường mặc áo sơ mi kẻ sọc và đội mũ nồi. Điều này đã tạo nên phong cách riêng biệt, không lẫn vào đâu được trong giới tội phạm.
Những thành viên trong băng đảng Les Apache được đánh giá là những kẻ rất biết ăn mặc, khiến mọi người phải chú ý tới mình. Chúng thường mặc áo sơ mi kẻ sọc và đội mũ nồi. Điều này đã tạo nên phong cách riêng biệt, không lẫn vào đâu được trong giới tội phạm.

Đọc nhiều nhất

Tin mới