Đốt cung A Phòng: Nỗi oan tày trời của Hạng Vũ

Người đời sau đều gán cho Hạng Vũ tội danh “đốt cung A Phòng” có lẽ đã hàm oan cho vị Tây Sở Bá Vương lừng lẫy một thời này!

Lửa thiêu cung A Phòng
Một trong những tội ác mà hàng ngàn đời nay, người Trung Quốc vẫn lên án Tần Thủy Hoàng - vị Hoàng đế đầu tiên của xứ sở này - chính là việc xây dựng những công trình hao tiền, tốn của và làm kiệt quệ sức dân, dẫu rằng họ vẫn phong tặng cho những công trình này đủ thứ danh hiệu, từ kỳ quan tới thắng cảnh. Cung A Phòng cũng là một công trình gây ra những tranh cãi như vậy.
Theo những gì sử sách còn ghi chép thì cung A Phòng được Tần Thủy Hoàng xây dựng vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 35, tức năm 212 trước Công nguyên để nghỉ mát trong những ngày hè. Vị trí của cung A Phòng khu lâm uyển (khu rừng dành riêng cho vua chúa đi săn) ở bờ Nam sông Vị, đối diện với kinh đô Hàm Dương của nước Tần nằm ở bờ phía Bắc.
Tính theo vị trí hiện tại thì cung A Phòng nằm cách trung tâm thành phố Tây An, tỉnh Thiêm Tây khoảng 13km về hướng Tây. Theo sử sách thì cung A Phòng được kiến trúc rất quy mô và rộng lớn, khi Tần Thủy Hoàng còn sống chỉ xây được một phần phía trước của cung điện.
Cung A Phòng.
Cung A Phòng.
Sách “Sử ký” của Tư Mã Thiên có nói rằng chỉ riêng phần đã hoàn thành này cũng đã rộng lớn tới mức kinh người: “Chiều từ Đông sang Tây của phần điện phía trước cung A Phòng dài 500 bộ (hơn 800m), chiều Nam - Bắc dài 50 trượng (hơn 150m), phía trên có thể ngồi được hàng chục ngàn người, phía dưới có thể dựng được cột cờ 5 trượng”.
Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế Hồ Hợi tiếp tục ra lệnh xây dựng cung A Phòng. Một nhà thơ có tiếng thời Đường là Đỗ Mục đã viết bài “A Phòng cung phú”, trong đó miêu tả về cung A Phòng như một cung điện nguy nga tráng lệ, phòng lâu san sát, tất cả đều được chạm trổ những nét điêu khắc và hoa văn rất độc đáo với diện tích hơn ba trăm dặm.
Tính theo các đơn vị đo lường ngày nay thì diện tích của cung A Phòng vào khoảng 80 ngàn mét vuông, có thể chứa hàng chục ngàn người. Theo truyền thuyết thì cung A Phòng có tới hơn 70 cung thất lớn nhỏ khác nhau. Trong một ngày mà thời tiết ở các cung thất, điện đài không nơi nào giống với nơi nào.
Cung điện huyền thoại này là nơi cất giữ vàng bạc, châu báu cũng như hàng ngàn vạn mỹ nữ mà đội quân nước Tần cướp được trong cuộc chiến tranh chinh phục 6 nước chư hầu. Người ta nói rằng, vàng bạc trong cung điện chất như núi còn mỹ nữ thì có cả vạn người.
Hiện tại, ở thị trấn Tam Kiều, ngoại ô phía Tây thành Tây An vẫn còn lưu giữ di chỉ cung A Phòng với diện tích lên tới 60 ngàn mét vuông. Điều đó đủ chứng minh rằng cung A Phòng được Tần Thủy Hoàng thiết kế và xây dựng có quy mô lớn tới mức nào. Nhiều người thậm chí còn cho rằng các công trình xây dựng hiện đại ngày nay, dù quy mô đến mấy cũng không sao sánh được với cung A Phòng.
Một câu hỏi đặt ra là, vì sao Tần Thủy Hoàng lại xây dựng một khu nghỉ mát mùa hè rộng lớn và hoành tráng đến như vậy. Nhiều người cho rằng câu trả lời thật đơn giản, bởi đó là bản tính của Tần Doanh Chính: bạo liệt và nghênh ngang, không biết trên đầu có ai.
Hơn nữa, khi đó, Tần Doanh Chính đã thống nhất cả thiên hạ, sự bạo liệt và kiêu ngạo của ông ta càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mặt khác, trong quá trình thôn tính 6 nước, Tần Doanh Chính đã thu được không ít của cải và mỹ nữ từ 6 nước vừa bình định đem về Hàm Dương. Quyền lực, tiền bạc đã đủ, vị “con giời” này đương nhiên thiết lập nốt “ngôi“ chúa cuối cùng đó là ái tình, cho thỏa tính ngông và thỏa mãn dục vọng kiểu đế vương.
Nhiều người lại tin vào truyền thuyết về một câu chuyện tình lãng mạn giữa Tần Doanh Chính và cô con gái của một thầy thuốc nước Triệu. Chính tên của người con gái đó đã được Tần Thủy Hoàng lấy để đặt tên cho cung điện vĩ đại nhất trong lịch sử này.
Chuyện kể rằng, hai người quen biết nhau từ khi Tần Doanh Chính còn ở Hàm Đan - kinh đô nước Triệu. Khi Tần Doanh Chính trở về Hàm Dương - kinh đô nước Tần - thì A Phòng cũng theo cha đến Hàm Dương tìm hoa kim cúc để chế thuốc trường sinh và hai người gặp lại nhau tại đây. Tần Doanh Chính dưới danh nghĩa một anh thợ mộc đã ngỏ lời muốn kết hôn cùng A Phòng và đã được A Phòng nhận lời.
Tuy nhiên, tình yêu của họ đã gặp muôn vàn trắc trở. Thái hậu Trịnh Cơ - mẹ của Tần Thủy Hoàng và Lã Bất Vi - tướng quốc nước Tần muốn Tần Thủy Hoàng lấy công chúa một nước khác với mục tiêu tạo thành một liên minh chính trị. Bởi vậy, Triệu Cơ và Lã Bất Vi đã tìm mọi cách ngăn cản tình yêu của họ, thậm chí đã nhiều lần định giết cả A Phòng.
Trong khi đó, các nước khác như Triệu, Sở, Hàn, Ngụy, Vệ… thì tìm mọi cách để ám sát Tần Doanh Chính. Lợi dụng việc Trường Lạc - công chúa nước Triệu - có dung mạo giống hệt như A Phòng, họ đưa cô đến để đóng giả làm A Phòng, hòng ám sát Tần Doanh Chính. Nhưng không may, công chúa lại bị tay chân của Đồng Thái thú giết chết vì chúng tưởng cô là A Phòng.
Tần Doanh Chính vô cùng đau khổ trước cái chết của Trường Lạc công chúa mà ông ta tưởng là A Phòng nên đã cho thi hài công chúa vào một quan tài pha lê chờ người mang thuốc đến cứu chữa. Trong khi đó, các nước chư hầu khống chế và lợi dụng A Phòng, tìm cách làm cô quên mất quá khứ, khống chế cô, hòng dùng cô để ám sát Tần Doanh Chính. Tuy nhiên, nhờ Hoa Dương Thái hậu - bà của Tần Doanh Chính - hát lại một bài hát cũ mà họ đã từng hát với nhau khi xưa, A Phòng mới bừng tỉnh, hai người nhận ra nhau.
Hạng Vũ trên phim.
Hạng Vũ trên phim.
Tình yêu tưởng như đã đến với họ, song, đúng lúc đó, khi Tần Doanh Chính quyết định đi đánh chiếm các nước khác nhằm thống nhất Trung nguyên, A Phòng vì khuyên ngăn không được nên quyết định tự vẫn. Cái chết của A Phòng khiến Tần Thủy Hoàng vô cùng đau khổ. Vì vậy, sau này, khi đã thống nhất Trung Quốc, lên ngôi Hoàng đế và quyết định xây dựng một cung điện quy mô hoành tránh nhất trong lịch sử, Tần Thủy Hoàng mới dùng tên A Phòng để đặt tên cho tòa cung điện này như một cách tưởng nhớ người mà mình thương yêu.
Tuy nhiên, công trình được xây dựng với quy mô chưa từng thấy nhằm tưởng nhớ người tình và cũng để tỏ rõ uy quyền của Tần Thủy Hoàng đã không đứng vững được bao lâu. Chỉ vài năm sau đó, tòa cung điện nguy nga tráng lệ đã bị thiêu rụi một cách không thương tiếc.
Lâu nay, từ chính sử cho tới dã sử, người ta đều nói rằng người đã ra lệnh đốt tòa cung điện nguy nga bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc này không ai khác chính là Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Chuyện kể rằng, trong khi Hạng Vũ kịch chiến với Chương Hàm - tướng của nhà Tần - thì Lưu Bang theo đường thẳng tiến về phía Tây, không đụng độ với cánh quân nào đáng kể của Tần, vì thế đã tiến vào Quan Trung trước.
Vua Tần là Tử Anh ra hàng. Lưu Bang vào được Quan Trung, chiếm Hàm Dương trước nhưng chưa dám làm gì. Khi đó, Hạng Vũ có 40 vạn quân, từ Tân An đi, muốn đánh chiếm đất Quan Trung nhưng cửa Hàm Dương có binh giữ cửa ải nên không vào đuợc. Nghe tin Lưu Bang đã vào Hàm Dương trước, Hạng Vũ nổi giận, sai Anh Bố đánh cửa ải. Quân Lưu Bang không chống nổi, phải rút lui. Hạng Vũ bèn vào đến phía Tây sông Hí Thủy.
Hôm sau, Hạng Vũ bày yến mời Lưu Bang ở Hồng Môn, theo mưu kế của mưu sĩ Phạm Tăng, định lợi dụng để giết Lưu Bang, trừ hậu hoạ về sau. Trên bữa tiệc, Phạm Tăng đã mấy lần định giết Lưu Bang nhưng do Hạng Vũ thấy thái độ của Lưu Bang quá khép nép, tin rằng Lưu Bang không có ý tranh giành với mình nên không quyết. Cuối cùng, Hạng Vũ đã tha cho quân của Lưu Bang rút khỏi Hàm Dương về Bái Thượng. Người ta thường nói đây là một trong những sai lầm lớn nhất của Hạng Vũ dẫn tới thất bại thê thảm của ông sau này. Tuy nhiên, đó là một câu chuyện khác.
Sau khi quân của Lưu Bang rút lui, Hạng Vũ dẫn 40 vạn quân ồ ạt tiến vào Hàm Dương, làm cỏ toàn bộ kinh đô của nước Tần. Không hề ôn hòa như Lưu Bang, Hạng Vũ dường như muốn chứng minh sự bạo liệt của mình không hề kém gì Tần Thủy Hoàng khi xưa. Ông ra lệnh xử tử vua Tử Anh của Tần vốn đã đầu hàng, ra lệnh cho quân lính vơ vét toàn bộ vàng bạc, châu báu cũng như mỹ nữ trong cung nhà Tần, đóng xe chuẩn bị chở về Giang Đông. Tiếp đó, Hạng Vũ ra lệnh châm lửa đốt toàn bộ cung điện, lăng tẩm của nhà Tần, bao gồm cả cung A Phòng.
Sử chép, lửa cháy suốt ba tháng ròng rã mà vẫn chưa thôi. Ngoài ra, cũng có người nói rằng sở dĩ Hạng Vũ ra lệnh đốt sạch cung điện nhà Tần là vì khi đó, ông nghe tin người thiếp yêu của mình là nàng Ngu Cơ bị bắt. Trong lúc đang ở nơi chiến tuyến xa xôi lại nhận được tin dữ, Hạng Vũ đã vô cùng tức giận nên mới ra lệnh đốt sạch cung điện nhà Tần để “hạ hỏa”.
“Sử ký” của Tư Mã Thiên chép về sự kiện này như sau: “Hạng Vũ dẫn quân về phía Tây, thảm sát thành Hàm Dương, giết chết Tử Anh đã đầu hàng, đốt toàn bộ cung thất nhà Tần, lửa cháy ba tháng không tắt”. Bài “A Phòng cung phú” của Đỗ Mục cũng có đoạn chỉ đích danh người đốt cung A Phòng chính là Hạng Vũ: “Sở nhân nhất chúc, khả liên tiêu thổ” (Một mồi lửa của người nước Sở (chỉ Hạng Vũ), Cung A Phòng một thuở thành tro).
Tuy nhiên, những ghi chép từ sử sách cũng như những phát hiện mới được công bố lại chứng minh rằng, từ trước tới sau, Sở Bá Vương Hạng Vũ không hề động tới cung A Phòng chứ đừng nói là thiêu rụi tòa cung điện nguy nga, tráng lệ này.
Và nỗi oan ngàn năm của Tây Sở Bá vương
Từ trước tới nay, người Trung Quốc luôn tin tưởng một cách tuyệt đối rằng chính Hạng Vũ là thủ phạm đã thiêu rụi cung A Phòng, biến tòa cung điện này trở thành một truyền thuyết thực sự. Vì vậy, vào năm 2002, một nhóm các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tới bờ sông Vị để tìm kiếm những dấu vết còn lại của cung A Phòng, những mong được chiêm ngưỡng một phần sự nguy nga, tráng lệ của tòa cung điện huyền thoại này. Tuy nhiên, kết quả khai quật được lại khiến các nhà khoa học té ngửa. Những dấu vết còn lại của cung A Phòng xưa không hề có dấu hiệu chứng tỏ cung A Phòng đã bị từng bị đốt cháy.
Có thể nào do thời gian đã trôi qua quá lâu, những vết tích còn lại của cung A Phòng phải chịu sự bào mòn của nắng mưa nên mới không còn những dấu vết của một trận hỏa hoạn kéo dài ba tháng hay không? Câu trả lời của các nhà khảo cổ là không. Bởi vì có một tòa cung điện cũng bị lửa đốt rụi như cung A Phòng nhưng những dấu vết mà nó để lại hoàn toàn không giống như những gì người ta nhìn thấy ở di chỉ cung A Phòng. Tòa cung điện đó chính là Trường Lạc cung.
Cung Trường Lạc được xây dựng ở thành Trường An - thủ đô nhà Tây Hán - là một trong những tòa cung điện nguy nga, hoành tráng nhất dưới thời kỳ nhà Hán, là nơi ở của mẹ Hán Vũ Đế, cháu đời thứ 7 của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Tương truyền, đây là nơi bắt đầu mối tình đầy lãng mạn và huyền thoại giữa Hán Vũ Đế Lưu Triệt và Trần Hoàng hậu – A Kiều.
Trần A Kiều là con gái của cô ruột Hán Vũ đế. Khi Vũ Đế còn nhỏ, một hôm, người cô hỏi có thích A Kiều không, cậu bé trả lời rằng nếu được lấy A Kiều thì sẽ xây nhà vàng cho nàng ở. Về sau, Vũ Đế lên ngôi, cưới A Kiều làm hoàng hậu và xây nhà vàng cho nàng ở như lời đã hứa.
Nhưng Trần Hoàng hậu hơn 10 năm không có con. Bình Dương công chúa - chị của Vũ Đế - tiến cử người con gái nhà họ Vệ sinh hoàng tử. Trần Hoàng hậu bị thất sủng, rất oán hờn nên đem 100 cân vàng nhờ Tư Mã Tương Như làm bài “Trường Môn phú” dâng Vũ Đế. Vũ Đế đọc bài phú, cảm động nên lại đưa nàng về ngôi vị hoàng hậu.
Đến cuối thời Đông Hán, cũng giống như cung A Phòng, cung Trường Lạc bị đốt trụi. Tuy nhiên, những dấu tích của trận hỏa hoạn còn để lại tới nay vẫn rất rõ. Xét về niên đại, cung A Phòng và cung Trường Lạc cách nhau không xa, vì thế nếu như cùng bị đốt cháy thì vì sao ở di chỉ cung A Phòng, người ta lại không thấy bất cứ dấu vết nào của trận hỏa hoạn. Trả lời cho sự khác biệt này chỉ có một khả năng duy nhất đủ thuyết phục: Cung A Phòng chưa từng bị đốt!
Khi các nhà khảo cổ đưa ra kết luận này đã gây ra một cuộc tranh luận rất dữ dội trong giới sử học Trung Quốc. Có người nghi ngờ rằng có thể nhóm các nhà khảo cổ nói trên đã khai quật sai địa điểm. Các nhà khảo cổ thì cho rằng họ không sai. Bởi lẽ, theo ghi chép của sử sách thì trước khi xây dựng tòa cung điện tráng lệ này, Tần Thủy Hoàng đã mời rất nhiều đạo sỹ để tìm kiếm một nơi có phong thủy đắc địa, gần thành Lạc Dương để xây dựng cung A Phòng.
Cuối cùng, các đạo sỹ đều khuyên rằng, Tần Thủy Hoàng nên xây dựng cung điện tại vị trí nằm ở giữa hai kinh thành của nhà Chu là thích hợp nhất. Vị trí mà các nhà khảo cổ khai quật nằm ở trong phạm vi này, hơn nữa cũng là địa điểm mà từ trước tới nay, các chuyên gia hàng đầu về cổ sử đều tin rằng đó chính là vị trí xây dựng cung A Phòng.
Tuy nhiên, nếu như thừa nhận rằng cung A Phòng chưa bao giờ bị cháy thì lẽ nào “Sử ký” - cuốn sử kinh điển từ hàng ngàn năm nay của Tư Mã Thiên - đã viết sai? Khả năng này là rất có thể. Bởi lẽ, trước đó, cũng có trường hợp tương tự về lịch sử giai đoạn nhà Thương. Theo ghi chép của “Sử ký” thì nhà Thương thống trị Trung Quốc cả ngàn năm, và đây là vương triều có thời gian thống trị dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo những phát hiện khảo cổ thì thời điểm nhà Thương bị diệt vong sớm hơn rất nhiều so với thời điểm mà Tư Mã Thiên ghi chép trong sử ký. Theo tính toán, khoảng thời gian chênh lệch này ít nhất là 500 năm. Vì vậy, không có gì đảm bảo rằng “Sử ký” không sai khi ghi chép về việc Hạng Vũ đốt cung A Phòng.
Thực tế, nếu như đọc kỹ “Sử ký” sẽ thấy rằng Tư Mã Thiên không hề nói rằng Hạng Vũ đã đốt cung A Phòng. Trong tác phẩm kinh điển của mình, Tư Mã Thiên chỉ nói, Hạng Vũ sau khi vào thành Hàm Dương giết chết Tử Anh, đã “đốt cung điện nhà Tần, lửa cháy ba tháng mới tắt”. Như vậy, chính những ghi chép trong “Sử ký” lại trở thành một chứng cứ minh chứng cho kết luận của các nhà khảo cổ. Bởi vì, “Sử ký” chỉ nói, Hạng Vũ vào Hàm Dương và đốt cung thất, kiến trúc của triều Tần, nghĩa là đốt các cung điện ở Hàm Dương.
Trong khi đó, cung A Phòng như đã nói được xây dựng ở bờ phía Bắc sông Vị, nằm bên ngoài thành Hàm Dương. Nói cách khác, nếu như Hạng Vũ có đốt thì chính là đốt cung điện, kiến trúc của nhà Tần ở Hàm Dương chứ không phải đốt cung A Phòng. Sau này, khi cung A Phòng đã mất, người đời sau căn cứ vào ghi chép của “Sử ký” nói rằng Hạng Vũ đốt cung điện nhà Tần nên cho rằng, cung A Phòng cũng là do Hạng Vũ đốt.
Lần giở sử sách thì người đầu tiên nói rằng cung A Phòng bị đốt cháy chính là thi nhân Đỗ Mục thời nhà Đường. Ngày nay, nhiều người tin rằng những phát hiện khảo cổ tại di chỉ cung A Phòng là không chính xác cũng bởi bài phú “A Phòng cung phú” của nhà thơ họ Đỗ. Trong bài thơ này, Đỗ Mục miêu tả rất kỹ lưỡng cung A Phòng, đồng thời kết luận, chính Hạng Vũ là người thiêu rụi tòa cung điện nguy nga này.
Tuy nhiên, Đỗ Mục là một nhà thơ, vì vậy, rất có thể ông đã hư cấu nên sự kiện cung A Phòng bị đốt để thực hiện mục đích “lấy cổ nói kim”. Việc lấy một tác phẩm văn học để làm chứng cớ lịch sử, e rằng không hợp lý.
Dù vẫn còn những tranh luận, tuy nhiên, tới năm 2004 thì giới sử học đều nhất trí cho rằng “cung A Phòng chưa từng bị đốt” và điều này cũng có nghĩa, Hạng Vũ không đốt cung A Phòng. Tuy nhiên, tới đây, có một vấn đề đặt ra là, Hạng Vũ đốt sạch cung điện ở Hàm Dương, cướp đi toàn bộ vàng bạc, châu báu của triều Tần, vậy vì sao Hạng Vũ lại bỏ qua cung A Phòng, tòa cung điện to lớn và quy mô nhất trong lịch sử nằm cách đó không xa? Kết luận của các nhà khảo cổ lại một lần nữa khiến người ta phải té ngửa khi họ cho rằng, căn bản, cung A Phòng thực tế chưa bao giờ được xây dựng!
Lý do khiến các nhà khảo cổ đưa ra kết luận nói trên là ba điểm rất “đáng nghi” khi họ khai quật di chỉ cung A Phòng. Thứ nhất là vào cuối năm 2003, người ta tìm thấy ở tường phía Bắc của cung A Phòng một lượng lớn các mảnh ngói từ thời nhà Hán. Vì sao ngói thời nhà Hán lại xuất hiện trong kiến trúc thời nhà Tần? Vậy, có phải cung A Phòng tồn tại tới thời nhà Hán, và người Hán dùng ngói này để tu sửa cung điện?
Thứ hai là, di chỉ điện trước của cung A Phòng là di chỉ cung điện lớn nhất ở Trung Quốc từ trước tới nay. Chỉ riêng diện tích phần móng của cung điện cũng đã rộng tới gần 60 ngàn mét vuông. Một tòa kiến trúc quy mô như vậy, với trình độ lao động, sản xuất thời bấy giờ, về căn bản là không có cách nào thực hiện được. Hơn nữa, từ thời Tần Thủy Hoàng cho tới Tần Nhị Thế và Tần Vương Tử Anh, toàn bộ các hoạt động của triều Tần đều diễn ra tại cung Hàm Dương hoặc Vọng Di cung. Sử sách chưa bao giờ có ghi chép bất cứ hoạt động nào của triều Tần diễn ra ở cung A Phòng. Điều này đương nhiên không thể không có lý do.
Thứ ba, căn cứ duy nhất cho sự tồn tại của cung A Phòng cho tới nay vẫn chỉ là những ghi chép bằng văn tự chứ chưa phát hiện được những chứng cớ chắc chắn. Nếu như cung điện đã được xây dựng, thì dù có bị thiêu rụi chăng nữa, cũng phải để lại một tầng dày khoảng 1m gạch và ngói vụn. Trường hợp này thấy rất rõ ở cung Hàm Dương. Tuy nhiên, ở di chỉ cung A Phòng, người ta lại không hề thấy điều đó.
Vì vậy, các nhà khảo cổ cho rằng bài phú của Đỗ Mục có thể là do nhà thơ họ Đỗ căn cứ vào những cung điện thời mình sống rồi tưởng tượng, hư cấu và miêu tả nên chứ không phải dựa trên một căn cứ xác thực nào cả. Như vậy, có thể khẳng định rằng, thực tế, cung A Phòng chưa bao giờ được xây dựng, hoặc có thể đã được bắt tay vào xây dựng nhưng chưa bao giờ hoàn thành với quy mô và sự hoành tráng như sử sách ghi chép. Và đương nhiên, cũng vì thế, cung A Phòng chưa bao giờ bị đốt như những gì người ta thường nói. Người đời sau đều gán cho Hạng Vũ tội danh “đốt cung A Phòng” có lẽ đã hàm oan cho vị Tây Sở Bá Vương lừng lẫy một thời này!

Nỗi oan khuất trăm năm của Thoại Ngọc hầu

Người mà sông núi mượn tên

Nỗi oan ngàn năm của “chiến thần” Lã Bố

Sau khi đọc xong “Tam Quốc diễn nghĩa”, với nhiều người, ấn tượng sâu đậm nhất về “chiến thần” Lã Bố có lẽ là một kẻ hữu dũng vô mưu, trở mặt như trở bàn tay, chỉ biết đến lợi ích bản thân, không có nghĩa khí lại quỵ lụy nhan sắc, để đàn bà sai khiến… Nói chung, ngoài sức vóc thuộc loại “vô địch thiên hạ”, Lã Bố chẳng được mấy ai khen ngợi. Tuy nhiên, nếu như tìm đọc chính sử, người ta sẽ thấy rằng Lã Bố không phải là một kẻ thất phu và tiểu nhân đến như vậy…
Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quận Ngũ Nguyên. Sách “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ giới thiệu về Lã Bố là người “kiêu dũng, giỏi võ nổi tiếng đất Tính Châu (Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc)”.
Điều này có lẽ chẳng cần phải nói nhiều, bởi lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên người ta gọi Lã Bố là “chiến thần”. Tuy nhiên, đoạn mà tác giả “Tam Quốc Chí” viết ngay sau đó mới quan trọng: “Quan thích sử (Tính Châu) Đinh Nguyên phong cho Lã Bố là kỵ đô úy.
Khi đóng quân ở Hà Nội đã giao cho Bố chức chủ bạ, coi như một tay chân thân tín”. Đây chính là nội dung đã bị các nhà tiểu thuyết vô tình hoặc cố ý “bỏ quên”, đặc biệt là công việc “chủ bạ” mà Lã Bố được Đinh Nguyên giao phó.
Vào thời nhà Hán, chức chủ bạ là chức quan quản các việc lương thảo, công văn thư tín trong quân đội, là một chức quan văn thuần túy, công việc phải xử lý cũng rất vụn vặt. Hơn nữa, khi Lã Bố làm chức chủ bạ, được Đinh Nguyên coi như người thân tín, do vậy có thể thấy rằng, Lã Bố làm công việc của một chủ bạ không đến nỗi tệ.
Từ đó, có thể nói rằng, Lã Bố tuyết đối không phải là một kẻ ít học, hữu dũng vô mưu nhưng La Quán Trung đã mô tả trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Ngược lại, với vai trò của một chủ bạ, nếu nói theo cách hiện đại thì Lã Bố cũng là một “phần tử trí thức”, được ăn học đàng hoàng.
Sau khi Linh Đế băng hà, Đại tướng quân Hà Tiến cùng với Tư lệ hiệu úy Viên Thiệu bàn tính diệt trừ hoạn quan. Sau khi bàn tính, Hà Tiến cho triệu Đổng Trác mang quân vào kinh. Đinh Nguyên và Lã Bố cũng được lệnh “mang binh mã tới Lạc Dương, cùng với Hà Tiến giết bọn hoạn quan”.

Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quân Ngũ Nguyên.
 Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quân Ngũ Nguyên.

Đinh Nguyên được phong làm chức “chấp kim ngô”. Chấp kim ngô là chức vị tương đương với chức tư lệnh cảnh vệ thủ đô hiện nay. Tuy nhiên, kết quả sự việc thất bại, Hà Tiến bị hoạn quan giết chết, Lạc Dương đại loạn.
Lúc đó, Đổng Trác trên đường mang quân về Lạc Dương, nghe tin Hán Thiếu Đế và em là Lưu Hiệp đã trốn ra khỏi cung, đang ở Bắc Mang bèn mang quân tới đón rồi đưa về cung. Từ đó, Đổng Trác bắt đầu lộng quyền.
Sử chép, để củng cố quyền lực, Trác buộc phải tiêu diệt những kẻ có thế lực trong triều đình. Một trong số đó chính là Đinh Nguyên. Trác thấy Lã Bố được Đinh Nguyên tin cẩn, bèn mật lệnh cho Lã Bố giết Nguyên. Bố chém đầu Nguyên dâng cho Trác, Trác phong bố làm kỵ đô úy.
Trong sử sách chỉ chép đơn giản như vậy, tuy nhiên, tới “Tam Quốc diễn nghĩa” lại nói rằng, Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên nhưng sau vì tham vàng bạc châu báu và ngựa xích thố nên mới theo Đổng Trác.
Kỳ thực, trong sử sách, chưa ai thấy nhắc tới việc Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên hơn nữa cũng không có chuyện Trác dùng vàng bạc mua chuộc Lã Bố. Lúc bấy giờ Đổng Trác là tiền tướng quân, được phong hầu lại kiêm cả châu mục.
Luận về địa vị, Trác ở vị trí cao hơn hẳn so với chức châp kim ngô của Đinh Nguyên. Với địa vị ấy, nếu như Đổng Trác ra lệnh cho Lã Bố giết Đinh Nguyên thì Bố không có cách nào từ chối. Bởi lẽ, Bố không phải là người nhà của Đinh Nguyên mà là một quan lại nhà Hán.
Thêm nữa, lúc bấy giờ Đổng Trác vừa có công hộ giá, lại đang nắm sinh mạng của hoàng đế trong tay, một khi Đổng Trác nói rằng, giết Đinh Nguyên là chiếu chỉ của thánh thượng thì việc Lã Bố có muốn hay không không còn quan trọng nữa.
Ngoài ra còn một điểm rất quan trọng khác mà nhiều người thường bỏ quên, đó là vào thời kỳ vào kinh, Đổng Trác nổi tiếng là một “hiền thần”, hết lòng vì dân, vì nước.
Ngay khi vừa vào cung, Đổng Trác đã giới thiệu rất nhiều danh sĩ nổi tiếng trong thiên hạ giữ những chức vị cao trong triều đình còn bản thân thuộc hạ của mình, Trác đều chỉ phong cho chức vụ rất thấp. Một người biết chuộng hiền tài như vậy, đương nhiên, Lã Bố không khỏi không hy vọng sẽ được Trác trọng dụng mà thăng tiến.
Sau này, Vương Doãn và Tôn Thụy bày mưu để Lã Bố giết Đổng Trác là vì mâu thuẫn giữa Trác và Bố, tuy nhiên, mâu thuẫn đó không hề bắt nguồn từ Điêu Thuyền như những gì sách “Tam Quốc diễn nghĩa” đã mô tả.
Sử chép, “Trác gặp người khác thường không giữ lễ, sợ có người mưu hại mình, vì thế khi đi đâu đều sai Bố làm hộ vệ. Tuy nhiên, Trác tính nóng nảy lại hẹp hòi, nên không nghĩ trước sau. Có lần vì chuyện nhỏ mà cầm kích lao về phía Bố.
Bố nhanh nhẹn tránh được, sau đó tạ lỗi với Trác, Trác cũng cho qua. Từ đó, Bố âm thầm oán ận Trác. Trác thường xuyên sai Bố vào phủ canh giữ, Bố đã tư thông với một tì nữ trong phủ của Trác. Bố luôn sợ bị phát giác nên luôn lo lắng”.
Cũng vì Bố âm thầm oán hận Trác, lại thêm luôn trong tâm trạng lo sợ bị Trác phát hiện chuyện tư thông của mình nên Vương Doãn và Tôn Thụy mới lợi dụng Bố để giết Trác.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác không giống với Bố và Đinh Nguyên trước kia. Sử chép: “Trác rất tin yêu Lã Bố, nhận làm con nuôi”. Vì thế, khi Vương Doãn nói chuyện giết Đổng Trác, Lã Bố đã nói: “Làm thế thì còn gì là cha con!”.
Vương Doãn nghe vậy đã nói với Lã Bố rằng: “Ngài vốn họ Lã chứ đâu phải họ Đổng, nào có quan hệ ruột thịt gì. Nay Đổng Trác chỉ lo cho ông ta, sao gọi là cha con được”. Nghe thế, Lã Bố bèn đồng ý. Đoạn mô tả trong sử sách này cho thấy, Lã Bố khi đó vẫn nhớ đến tình cha con giữa mình và Đổng Trác.
Tuy nhiên, khi đó, Đổng Trác đã trở thành một kẻ chuyên quyền, hung hãn, tàn bạo, một tên “quốc tặc” làm loạn thiên hạ, các chư hầu ở Quan Đông đều đã khởi binh thảo phạt Đổng Trác.
Có thể nói, lúc bấy giờ, việc giết Đổng Trác là việc ai cũng có thể làm. Vì vậy, nếu có gì đáng chê trách Lã Bố thì chính là Bố đã lấy việc công để trả thù riêng của mình.
Sự kiện diễn ra sau đó mới thể hiện hết tính cách của Lã Bố.  Sau khi Đổng Trác chết, do Vương Doãn không tha cho thuộc hạ của Đổng Trác, vì thế, thuộc hạ của Trác là Lý Thôi, Phàn Trù, Lý Mông dẫn hơn 10 vạn binh mã vây thành Trường An.
Lúc bấy giờ, tại Lạc Dương, dưới sự hoạch định của Vương Doãn, Lã Bố được phong là Phấn uy đại tướng, tước là Ôn hầu, cung tham dự việc chính sự. Tuy nhiên, khi Lý Thôi, Quách  Dĩ mang quân tới bao vây Trường An, Lã  Bố tự mở cửa thành xông ra đơn thân độc mã đánh nhau với Quách Dĩ.
Với tư cách là một vị chủ soái, Lã Bố không nhất định phải đơn thương độc mã mở cửa thành ra đánh với Quách Dĩ. Hành động này cho thấy, Bố là kẻ không quan tâm nhiều tới đại cục, chỉ coi việc chém tướng đoạt cờ là quan trọng, giống với một hiệp khách giang hồ hơn là của một đại tướng quân.
Khi thành Lạc Dương bị phá, Lã Bố bỏ chạy. Bố yêu cầu Vương Doãn chạy theo mình nhưng Vương Doãn nhất định không đi.
Sau trốn khỏi thành Lạc Dương, đầu tiên Lã Bố tới đầu quân cho Viên Thuật. Tuy nhiên, Viên Thuật cự tuyệt không nhận Lã Bố. Bắt đầu từ đây, Lã Bố trải qua quãng thời gian bất đắc chí và không được may mắn.
Rời khỏi chỗ Viên Thuật, Lã Bố đi một mạch dài, qua sông Hoàng Hà tới quận Hà Nội thuộc Tính Châu, theo thái thú Hà Nội là Trương Dương - người vốn từng cùng ông phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên.
Tuy nhiên, quân của Lý Thôi, Quách Dĩ đuổi quá gấp, Lã Bố lại phải rời Hà Nội đi về phía Nam, vượt sông tới chỗ Viên Thiệu. Tại đây, Lã Bố giúp Viên Thiệu đánh tướng Khăn Vàng là Trương Yên ở Thường Sơn. Yên có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn quân kỵ.
Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố vì thế thường xuyên cưỡi ngựa mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Quân Trương Yên thua tan tác, bản thân Trương Yên nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình.
Lã Bố lập công, có ý coi khinh những thuộc hạ của Viên Thiệu, liên tiếp sai người giục Viên Thiệu thăng chức cho mình. Tuy nhiên, Thiệu có ý nghi kỵ Lã Bố, cứ ậm ờ không chịu phong chức. Thấy Viên Thiệu không đáp ứng, Bố bèn xin về Lạc Dương. Viên Thiệu ngoài mặt đồng ý, phong Lã Bố làm Tư lệ hiệu úy, nhưng sau lưng lại dặn các tướng thừa cơ giết ông.
Lã Bố đoán biết Viên Thiệu nghi ngờ mình, nên sắp đặt kế thoát thân. Ban đầu Lã Bố giả cách ngồi trong trướng gảy đàn tranh, nhưng sau đó đưa đàn cho người khác gảy tiếp để lừa thủ hạ của Viên Thiệu, còn mình thì bí mật nhân trời tối lẻn chạy trốn.
Một lúc sau thủ hạ của Viên Thiệu đi thám thính nghe tiếng đàn tắt tưởng Lã Bố đã ngủ bèn đi báo cho các tướng của Viên Thiệu. Các tướng ập đến mới biết bị lừa.
Viên Thiệu nghe tin báo không giết được Bố bèn sai người đuổi theo, nhưng những người đuổi theo đều không địch nổi Lã Bố, bị đánh phải quay trở về. Cùng đường, Lã Bố lại đành phải tìm đến chỗ Trương Dương. Trương Dương không nhắc lại việc trước đây Lã Bố ra đi không từ biệt, cho Bố quay trở lại.
Từ đây có thể thấy, nguyên nhân Lã Bố bỏ Viên Thiệu là do Thiệu đã có ý nghi kỵ Lã Bố từ trước. Hơn nữa, Lã Bố khinh thường những thuộc hạ của Thiệu là không xứng đáng ngang hàng với mình.
Kỳ thực, chuyện này không thể trách được Lã Bố, bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả chức xa kỵ tướng quân của Viên Thiệu cũng là tự phong chứ không phải là do triều đình sắc phong. Vì thế, những chức quan dưới trướng của Viên Thiệu đều do ông ta tự phong cho cả.
Những chức quan này đương nhiên không thể sánh ngang với chức phấn uy tướng quân, tước ôn hầu của Lã  Bố do triều đình phong cho. Vì thế, Lã Bố có nói rằng, những thuộc hạ của Viên Thiệu không thể sánh ngang với mình cũng chẳng có gì sai cả.
Thêm vào đó, khi Lã Bố tham gia quân của Viên Thiệu đã lập nhiều công lớn. Chỉ riêng chuyện một mình một ngựa  Xích Thố xông vào trại quân Trương Yên rồi đánh cho chúng tan tác cũng đủ thấy Lã Bố uy dũng thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà sử chép rằng, mọi người “đều sợ Bố”. Một vị tướng do triều đình phong, lại có công lớn đương nhiên có tư cách để cao ngạo một chút.
Lại nói chuyện Lã Bố sau khi trở lại với Trương Dương vẫn không được an toàn, bởi lẽ Lý Thôi, Quách Dĩ vẫn không chịu buông tha, còn ban lệnh treo thưởng truy nã Bố. Thuộc hạ của Trương Dương đều bị bọn Lý Thôi, Quách Dĩ mua chuộc, định hợp mưu bắt Lã Bố giao nộp.
Sau khi Lã Bố biết chuyện, đã nghĩ ra một nước cờ cực kỳ cao minh. Lã Bố biết Trương Dương là người nghĩa khí vì thế đã nhắm vào điểm yếu này của Trương. Chuyện kể rằng, Trương Dương là người khoan dung, quản thuộc hạ không nghiêm.
Ngay cả khi có người mưu phản, bị phát giác nhưng Trương Dương không xử tội mà chỉ khóc. Một hôm, Lã Bố nói với Dương rằng: “Nay Lã Bố này ở trong châu của ông. Ông giết tôi thì quân của ông sẽ yếu đi. Chi bằng bắt tôi giao cho bọn Quách, Dĩ sẽ được bổng lộc”.
Trương Dương vốn không có chủ ý này, tuy nhiên, Lã Bố nói không hề sai chút nào. Vì thế, Dương ngoài mặt thì hứa với bọn Quách, Dĩ sẽ bắt Lã Bố nhưng thực tế bên trong vẫn bảo vệ Lã Bố. Nhờ cách này, Lã Bố đã thoát được khỏi lệnh truy nã của triều đình, thoát khỏi thân phận của một tội phạm.
Từ đó, có thể thấy, Lã Bố rất biết cách nhìn nhận thế cục cũng như nắm bắt tính cách con người. Do đó, việc Lã Bố được giao cho chức chủ bạ đồng thời được Đinh Nguyên yêu thích cũng không phải là chuyện nói bừa.
Chẳng bao lâu sau, Duyễn Châu có nội loạn, lại cho Lã Bố một cơ hội để dựng lại sự nghiệp. Tuy nhiên, cuộc nội loạn này cũng bắt đầu từ Lã Bố. Trong thời gian Lã Bố trốn khỏi chỗ của Viên Thuật về với Trương Dương từng đi qua chỗ của Trương Mạc khi đó làm thái thú Trần Lưu.
Khi chia tay, hai người đã nắm tay thề sẽ tương trợ lẫn nhau. Viên Thiệu nghe tin rất giận dữ. Trần Lưu khi đó thuộc quyền cai trị của Tào Tháo, vì thế, Trương Mạc rất sợ Tào Tháo sẽ giúp Viên Thiệu đánh mình.
Tới năm Hưng Bình thứ nhất, tức năm 194, Tào Tháo do nghi ngờ châu mục Từ Châu là Đào Khiêm giết cha mình, bèn mang quân đánh Từ Châu. Không giết được Đào Khiêm, Tào Tháo sát hại rất nhiều người dân vô tội ở Từ Châu.
Trần Cung và Trương Siêu, em của Trương Mạc cùng nhau khuyên Mạc khởi binh làm phản, chống lại Tào Tháo. Cung khuyên Mạc rằng: “Nay thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi lên ở khắp nơi, thiên đế thì ở nơi xa không nên ngu trung.
Nay Lã Bố là kẻ tráng sĩ, thiện chiến, nếu như đón được người này về, cùng nhau cai quản Duyễn Châu thì có thể xưng hùng một phương”. Lý do mà Trần Cung khuyên Trương Mạc hợp tác với Lã Bố, chống lại Tào Tháo là vì Bố là người “tráng sĩ, thiện chiến”. Điều này một lần nữa chứng minh, Bố là một kẻ sức vóc, uy dũng hơn hẳn người thường.
Sau nhiều lần giao tranh với Tào Tháo, Lã Bố cuối cùng đã không địch lại được nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc, đành phải bỏ chạy theo về với Lưu Bị. Một người cả đời phải vào vai một chính nhân quân tử như Lưu Bị đương nhiên không thích thú một kẻ giang hồ, theo chủ nghĩa cá nhân như Lã Bố.
Sách “Anh hùng ký” có chép rằng: Lưu Bị gặp Bố, rất vui mừng kính trọng, nói với Bố rằng: “Tôi và tướng quân là người cùng quê. Khi quân Quan đông khởi nghĩa, muốn giết Đổng Trác, tướng quân giết Trác theo về Quan Đông. Quân Quan đông lại lo lắng vì tướng quân, đều muốn giết ngài”.
Lã Bố nghe Lưu Bị nói vậy, mời vào trong trướng, ngồi lên giường vợ mình, ra lệnh cho vợ bái Lưu Bị, rồi rót rượu cho Lưu Bị và Lã Bố ăn uống. Trong tiệc rượu Bố gọi Bị là em. Lưu Bị thấy Bố lời nói và hành động không bình thường, bề ngoài thì vẫn vui cười nhưng trong lòng không vui.
Thực tế thì lúc bấy giờ, Lã Bố thực sự rất kính trọng Lưu Bị, hơn nữa, Lưu Bị với Bố cùng là người miền Bắc vì thế mới có chuyện mời Lưu Bị vào nhà sau, ngồi lên giường vợ mà lệnh cho vợ ra bái chào.
Hơn nữa, vào thời nhà Hán, quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân” vẫn chưa thực sự nặng nề như sau này vì thế, việc Lã Bố mời Lưu Bị vào nhà sau uống rượu cũng có thể là để thể hiện sự thân mật.
Vào thời điểm lúc bấy giờ, Lưu Bị 34 tuổi, Lã Bố hơn Lưu Bị 2 tuổi, do vậy Lã Bố gọi Lưu Bị là em cũng không có gì sai. Tuy nhiên, Lưu Bị lại không nghĩ như vậy. Bị cho rằng, Bố là kẻ tới hàng mình, do vậy gọi mình là “em”, lại cho vợ ra ngồi cùng uống rượu là việc không hợp lễ nghĩa vì thế mới nói rằng, “Lã Bố lời nói bất thường” mà không lấy làm vui.
Sau này, để chia rẽ Lã Bố và Lưu Bị, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp nhận. Lã Bố thấy Lưu Bị hợp tác với Tào Tháo, sợ hai bên liên kết đối phó với mình nên bắt đầu lo lắng. Về sau, Viên Thuật ở Dương Châu mang quân tấn công Từ Châu.
Lưu Bị mang quân ra chống cự ở Hoài Âm. Viên Thuật viết thư cho Lã Bố xúi Bố đánh úp Từ châu thì sẽ tạ ơn bằng 20 vạn hộc lương. Lã Bố nghe theo, nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì (thủ phủ Từ châu) là Trương Phi và Tào Báo bất hòa bèn mang quân đánh úp thành.
Tào Báo bị Trương Phi giết, thủ hạ là Hứa Đam và Chương Luống đến gặp Lã Bố, khuyên nhân lúc đêm tối đánh ngay thì ở trong thành sẽ làm nội ứng. Lã Bố bèn tiến quân, Hứa Đam mở cửa thành, Lã Bố chiếm được Hạ Bì.
Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại, phải lui quân về Quảng Lăng. Trong lúc thất thế lại bị Viên Thuật đánh bại một trận nữa, phải chạy ra Hải Tây. Lúc bấy giờ, Lưu Bị rơi vào tình thế khốn quẫn không còn được nào để đi được nữa.
Trong tình thế ấy, Lã Bố vẫn không đuổi tận giết tuyệt Lưu Bị, ngược lại, chấp nhận cho Lưu Bị đầu hàng và cho về giữ Tiểu Bái theo yêu cầu của Lưu Bị. Sau này, Lã Bố tự xưng là châu mục Từ châu vẫn cho mời Lưu Bị xưng là thứ sử Dự Châu.
Từ cách ứng xử với Lưu Bị, đủ thấy, Lã Bố vẫn là một kẻ giữ đúng tính cách giang hồ trượng nghĩa của mình, không nhỏ nhen như Viên Thiệu, cũng không cạn nhân tình như Tào Tháo. Nhưng Lã Bố cũng chết cũng vì cái nghĩa khí giang hồ ấy.
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Khi quân Tào kéo tới Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Quảng, Lã Bố thua Bị mấy trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo bèn gửi thư dụ hàng ông. Lã Bố muốn hàng, nhưng Trần Cung cho rằng không nên, và hiến kế chia quân chống lại. Lã Bố ban đầu nghe theo, nhưng nghe lời vợ can không nên đi lại thay đổi ý định không đi nữa, chỉ sai Hứa Dĩ, Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật lần nữa.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được Hạ Bì, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Úc và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì.
Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Trong khi đó viện binh của Viên Thuật và Trương Dương vẫn không thấy đến.Trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng, hy vọng Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo.
Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình, nhưng vẫn vây đánh thành. Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo.
Trong lúc đó, một thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn bắt trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc quân vào.
Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, nói với các thủ hạ hãy chặt đầu mình nộp cho Tào Tháo lấy thưởng, nhưng các thủ hạ của ông không nỡ làm.
Quân Tào tiến lên lầu bắt trói được Lã Bố. Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết Bố vì Bố là người hay trở mặt, từng giết Đinh Nguyên và Đổng Trác. Tào Tháo nghe theo, bèn sai mang Lã Bố giết chết.

Bí ẩn khó giải: Hết bệnh nhờ… "vong nhập"?

(Kiến Thức) - Chuyện Lurancy Vennum khỏi chứng điên dại nhờ bị "vong nhập" từng gây rúng động nước Mỹ. Đó là sự thực hay chỉ là trò bịp bợm của gia đình cô?

Lurancy Vennum sinh ngày 16/4/1864 tại thị trấn Milford cách Watseka (Mỹ) 7 dặm về phía Nam. Sau nhiều lần chuyển nhà, gia đình cô quyết định dừng chân ở Watseka năm 1871. Kể từ đây, những chuyện ly kỳ bắt đầu xuất hiện.
Lurancy Vennum sinh ngày 16/4/1864 tại thị trấn Milford cách Watseka (Mỹ) 7 dặm về phía Nam. Sau nhiều lần chuyển nhà, gia đình cô quyết định dừng chân ở Watseka năm 1871. Kể từ đây, những chuyện ly kỳ bắt đầu xuất hiện. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới