Đồng Khánh, Khải Định: Hai cha con vua bù nhìn (1)

(Kiến Thức) - Hai cha con Đồng Khánh và Khải Định không thể có bất cứ một điểm sáng nào đáng để đời sau châm chước cả.

Triều đình nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua. Lịch sử nhìn nhận lại những công, tội đối với đất nước của mỗi thời kì một cách khách quan. Nhưng hai cha con Đồng Khánh và Khải Định không thể có bất cứ một điểm sáng nào đáng để đời sau châm chước cả.
Ngai vàng bỏ trống không vua
Ba người con nuôi của vua Tự Đức có số phận khác nhau. Ưng Chân vì lớn tuổi nhất, được chỉ định lên làm vua, nhưng chỉ được ba ngày thì bị truất. Ưng Đăng nhỏ tuổi nhất cũng được đưa lên làm vua vì... nhỏ tuổi dễ sai khiến. Nhưng lại chết yểu một cách mờ ám. Những tưởng Ưng Đường, người đứng thứ hai, không có cơ hội lên làm vua, nhưng rồi thế sự xoay vần, vị hoàng tử này cũng đến lượt mình.
Triều đình Huế bấy giờ năm bè bảy mối, bị chi phối bởi các vị quyền thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Việc chọn ai lên ngai vàng lấy tiếng là do Hoàng Thái hậu, nhưng thực ra đều do các ông này quyết định cả.
Sau khi Kiến Phúc (Ưng Đăng) chết đi, người ta không chọn ông anh (Ưng Đường) mà lại chọn ông em (Ưng Lịch) cũng vì... còn nhỏ lên làm vua Hàm Nghi. Hàm Nghi nhỏ tuổi nhưng có chí lớn, đã cùng Tôn Thất Thuyết lên đường phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.
Ngai vàng bỏ trống không vua. Vua Hàm Nghi vẫn còn, không thể thay bằng vua khác được. Nhưng người Pháp không muốn thế, họ muốn có một vị vua bù nhìn để khống chế triều đình và mị dân.
Vua Đồng Khánh.
Vua Đồng Khánh. 
Chiếc ghế nóng
Ta còn nhớ, tình thế bấy giờ ngai vàng là chiếc "ghế nóng" đầy bất trắc. Cho nên Hồng Dật khi được mời làm vua (Hiệp Hòa) đã hết lời khước từ. Ưng Đăng phải trốn tránh, khóc lóc xin tha. Ấy vậy mà Ưng Đường lại vô cùng ao ước được làm vua.
Ưng Đường còn có tên là Ưng Biện, được ngồi học ở điện Chánh Mông nên thường được gọi là hoàng tử Chánh Mông. Khi ấy hoàng tử này đã 21 tuổi, mê đọc sách, nhưng rất mê tín. Ông ta luôn đến điện Ngọc Trân để cầu nữ thần Thiên Y A Na cho mình có cơ hội ngồi lên ngai vàng.
Cơ hội ấy đã đến. Viện Cơ mật tranh cãi nên chọn ai: Bửu Lân con vua Tự Đức hay Chánh Mông? Chọn ai cũng phải được phía Pháp chuẩn y. Quan đại thần Nguyễn Hữu Độ là cha vợ của Chánh Mông lại là người thân Pháp, ton hót với De Courcy nên người được chọn chính là Chánh Mông. Đại thần Viện Cơ mật Phan Đình Bình phản đối, về sau bị vu là phản nghịch và bị bức tử.
Nhục nhã thay một việc chưa từng có, Chánh Mông phải sang Tòa Khâm sứ để được thụ phong làm vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh, sau đó mới được trở về làm lễ đăng quang ở điện Thái Hòa. Thật mỉa mai, niên hiệu Đồng Khánh có hàm nghĩa cả Nam triều và Pháp triều cùng vui vẻ cả! 
Được lên làm vua, tất tật việc gì Pháp yêu cầu, Đồng Khánh đều răm rắp nghe theo. Ông ta viết thư tạ ơn quan thầy: "Nước tôi xin nhận quý quốc là thượng quốc, và xin tuyên phong quý Đô đốc De Courcy làm Bảo Hộ quận vương".
Đồng Khánh còn khen thưởng, truy tặng những quan lính Pháp "có công"  đàn áp cuộc binh biến của quân ta tấn công vào đồn Mang Cá năm trước. Sau đó, Đồng Khánh còn nhường thêm đất để quân Pháp mở rộng đồn Mang Cá kiên cố hơn nữa. Đồng thời ông ta ký nhường cho Pháp các hải cảng quan trọng là Hải Phòng và Đà Nẵng làm nhượng địa.
Đổi lại, Đồng Khánh được hưởng thụ một cuộc sống xa hoa, tiệc tùng liên miên. Ăn mặc chau chuốt, cầu kì. Bộ hoàng bào thêu rồng thêu phượng, dát vàng ròng, khảm châu ngọc nặng đến nỗi khi bước đi phải có thái giám nâng vạt áo.
(Còn nữa)

Chuyến “vi hành” ở Pháp của vua Khải Định

Ngày 20/5/1922, vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một ông vua triều Nguyễn công du chính thức ra nước ngoài. Ảnh đăng tải trên trang Gallica.bnf.fr.
 Ngày 20/5/1922, vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một ông vua triều Nguyễn công du chính thức ra nước ngoài. Ảnh đăng tải trên trang Gallica.bnf.fr.

Để thực hiện chuyến đi, vua Khải Định phải đi tàu biển mất 1 tháng đến cảng Marseille, rồi từ đó đi tàu hỏa đến thủ đô Paris của Pháp.
 Để thực hiện chuyến đi, vua Khải Định phải đi tàu biển mất 1 tháng đến cảng Marseille, rồi từ đó đi tàu hỏa đến thủ đô Paris của Pháp.

Chuyến đi công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn "Vi hành" nổi tiếng.
Chuyến đi công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn "Vi hành" nổi tiếng.

Nhân dịp này, nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần, gồm “Tôn bậy quân quyền - Lạm hành thưởng phạt – Thích chuộng những việc quỳ lạy – Xa xỉ quá độ - Ăn bận không phải lối – Chơi bời vô độ - Chuyến đi Tây này có một sự ám muội”.
Nhân dịp này, nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần, gồm “Tôn bậy quân quyền - Lạm hành thưởng phạt – Thích chuộng những việc quỳ lạy – Xa xỉ quá độ - Ăn bận không phải lối – Chơi bời vô độ - Chuyến đi Tây này có một sự ám muội”.

Vua Khải Định vốn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng bào truyền thống của các vua chúa và thường bị đả kích trên báo chí đương thời.
 Vua Khải Định vốn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng bào truyền thống của các vua chúa và thường bị đả kích trên báo chí đương thời.

Vua Khải Định cùng con trai là VĩnhThụy (bên trái), người là vua Bảo Đại sau này, đi thăm đài kỷ niệm chiến sĩ vô danh tại Paris.
Vua Khải Định cùng con trai là VĩnhThụy (bên trái), người là vua Bảo Đại sau này, đi thăm đài kỷ niệm chiến sĩ vô danh tại Paris.

Chuyến “vi hành” của vua Khải Định được đánh giá là rất tốn kém và không đem lại bất cứ một lợi ích nào cho dân tộc Việt Nam.
Chuyến “vi hành” của vua Khải Định được đánh giá là rất tốn kém và không đem lại bất cứ một lợi ích nào cho dân tộc Việt Nam.

Ly kỳ Khải Định xử án đào nhầm mộ

(Kiến Thức) - Một vụ án tuy không phức tạp nhưng vì quan xử không thấu đáo, khiến bị đơn lên tận triều đình chặn đường xa giá của vua Khải Định để kêu oan.

Câu chuyện xảy ra vào tháng 2 năm Tân Dậu (1921) khi một người dân ở xã Vân Đô, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa tên là Lê Xuân Hàm có đơn kêu kiện gửi đến các quan từ huyện đến tỉnh tố cáo một người cùng xã tên là Lâm đã đào nhầm ngôi mộ của cha đẻ mình. Sự việc được giao xuống cho quan Tri huyện Nguyễn Toại xét xử, kết quả điều tra cho biết trước đó Lâm đã di dời cùng lúc 5 ngôi mộ, bị gọi đến công đường, hắn ta cam đoan rằng đó đều là mộ của người thân mình rồi chỉ một ngôi mộ để quân lính đào lên xét nghiệm. Tri huyện liền cho đình chỉ vụ án, mặc cho nguyên đơn là Lê Xuân Hàm đề nghị đào hết cả bốn ngôi mộ còn lại để xét nghiệm, nếu không phải thì xin chịu tội. Vì bị bác bỏ, không còn cách nào khác, Lê Xuân Hàm vào tận kinh đô Huế đón đường chờ xa giá vua Khải Định đi qua để đội đơn kêu trình.
Vua Khải Định phê duyệt tấu chương.
 Vua Khải Định phê duyệt tấu chương.

Xem đơn, Khải Định phê rằng: “Tên Lê Xuân Hàm ở xã Vân Đô, tỉnh Thanh Hóa cho rằng người khác đào nhầm phải mộ cha mình, lặn lội nghìn dặm lên kinh đón xa giá kêu trình rằng hài cốt của cha y hiện bị lẫn lộn trong năm ngôi mộ của nhà tên Lâm, đã đào một ngôi nhưng không phải, còn bốn ngôi kia thì không cho phép đào tiếp để khám nghiệm. Xét thấy dân đen có kẻ vì người thân mà dám liều chết, không quản ngại gian khổ như tên Hàm kia thực cũng hiếm thấy, tấm lòng hiếu thảo của y thực đáng thương xót. Vậy truyền cho tỉnh thần chuẩn y cho đào hết cả bốn ngôi mộ lên khám nghiệm, nếu quả có hài cốt người cha của y thì trao trả cho y đem về mai táng để an ủi tấm lòng hiếu thảo, còn khai quật lên mà không đúng thì y phải chịu tội nặng. Truyền khám nghiệm xong, kết quả đúng sai thế nào phúc tâu lên trẫm quyết định. Truyền Cơ mật viện cung lục tuân hành”.

Theo sách Khải Định chính yếu sơ tập, các quan theo lệnh vua lập tức tiến hành khai quật khám nghiệm. Thấy vụ việc sắp bại lộ, tên Lâm sợ hãi gọi bác ruột mình là Cát ra chỉ vào một ngôi mộ, quân lính đào lên khám nghiệm thì quả đúng là hài cốt người cha quá cố của Lê Xuân Hàm. Kết quả được tấu trình lên, vua Khải Định phê rằng: “Theo lời phúc tấu thì tên Hàm kêu trình quả không sai, còn tên Lâm, tên Cát đã đào nhầm phải mộ cha của tên Hàm, truyền giao cho tỉnh thần nghị xử, đệ trình bộ Hình duyệt tâu, đợi chỉ thi hành”.

Cân nhắc tình tiết, tội trạng của từng người, quan án xử Cát bị phạt đòn 100 trượng, tội đồ 3 năm; còn Lâm bị đánh 90 trượng, đồ 2 năm rưỡi. Quan huyện Đông Sơn là Nguyễn Toại làm việc thiếu trách nhiệm, không đến nơi đến chốn nên bị khiển trách, bộ Hình đề nghị biếm chức một bậc; còn viên Kinh lịch tên là Nguyễn Huy Nhụ trực tiếp tham gia khám nghiệm cũng bị khiển trách, ghi lỗi vào lý lịch. Các quan có chức trách ở tỉnh Thanh Hóa cũng bị liên đới, đều chịu khiển trách. Bản án được dâng lên, xem xong vua Khải Định lại phê rằng: “Dân đen ngu dốt không hiểu đạo lý, đã trót nhầm rồi lại sợ bị tội đâm ra làm quẩn để thành trọng tội như tên Lâm, tên Cát ngoài đời cũng nhiều. Hạng ấy nghĩ cũng đáng thương, tỉnh thần nghị xử giảm xuống tội đồ là đúng, nhưng xét thương cho kẻ ngu tối nên tạm gia ân khoan hồng giảm hình phạt cho mỗi tên xuống một bậc, tên Cát phạt đòn 90 trượng, đồ 2 năm rưỡi; tên Lâm phạt đòn 80 trượng, đồ 2 năm, khi mãn hạn thì tha cho về. Đối với huyện lệnh được phái đi làm việc bên ngoài, vậy mà đối với việc dân sự không tận tâm, theo trình thuật thì làm việc có phần thiên vị che giấu, không tròn chức phận, đáng phải xử nặng nhưng bộ thần đã có thẩm nghị nên tạm chuẩn y. Còn tỉnh thần tỉnh Thanh Hóa, cách làm việc cũng không khác gì viên Huyện lệnh là mấy, lại còn không biết tự nhận lỗi, đáng như bộ thần đề nghị phải chịu khiển trách mới phải, nhưng lại nghĩa vì đã thể ý thi hành ngay theo chỉ dụ, đủ để bù lỗi, nên chuẩn rộng lượng tha miễn cho”.

Quan huyện xử án. Ảnh tư liệu.
 Quan huyện xử án. Ảnh tư liệu.

Sau khi vụ án kết thúc không lâu, vua Khải Định trong một buổi lâm triều đã nhắc nhở quần thần rằng: “Vụ Lê Xuân Hàm ở Thanh Hóa kêu chuyện mất mộ cha, trẫm cứ suy nghĩ sớm hôm liền trong mấy chục ngày, mới nghĩ ra rằng tên ấy đã vì người thân mà quên cả thân mình, hiếu thảo như thế quả thực đáng khen, bèn phê giao cho tỉnh thần địa phương khai quật tất cả bốn ngôi mộ lên khám nghiệm. Chỉ là vì thấy một người dân chưa được thỏa lòng nên mới phải lo nghĩ như thế, cho nên mấy ngày gần đây bị mệt; nhân đem tờ phiến tâu trình kết quả về vụ này ra xem lại, liền cảm thấy bệnh tình giảm đi phân nửa. Ngày nay dân trí đã dần dần được mở mang nên không thể khư khư bám giữ lấy ý kiến cũ mà dùng cường quyền áp chế đi được…Thời đại ngày nay thực khó chế ngự, nhưng trên đời không có việc gì khó, chỉ cần suy nghĩ là giải quyết được cả”.

Vụ án đào nhầm mộ nói trên không phải là một trường hợp cá biệt, mà trong thực tế còn xảy ra nhiều sự việc có tính chất nghiêm trọng hơn, chính vì vậy từ thời Hậu Lê, các quy tắc, điều luật đề cập đến vấn đề này đã được ban hành, quy chuẩn. Từ đó trở thành cơ sở để ngăn chặn cũng như giải quyết các hành vi xấu, góp phần giữ gìn sự ổn định và đạo đức xã hội.

Cận cảnh đơn vị radar sau thảm họa Chernobyl

(Kiến Thức) - Đơn vị radar “Duga” ở Ukraina bị bỏ hoang sau khi xảy ra thảm họa Chernobyl. Hiện nó trở thành địa điểm hút khách du lịch.

Hệ thống radar “Duga” được xây dựng từ năm 1985 nhằm phát hiện những vụ phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa.
Hệ thống radar “Duga” được xây dựng từ năm 1985 nhằm phát hiện những vụ phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới