Điều chưa biết về xe tăng huyền thoại T-34 của Việt Nam

(Kiến Thức) - Xe tăng T-34 mà Việt Nam có sử dụng hiện vẫn biên chế trong Quân đội Nga, tung hoàng hầu hết các xung đột lớn trong thế kỷ 20-21...

Khi những chiếc xe tăng T-34 của Hồng quân Liên Xô tiến vào thành phố Berlin vào năm 1945, đây được xem như dấu chấm hết cho chủ nghĩa Phát xít ở Châu Âu. Không những thế nó còn là thời khắc làm nên huyền thoại của những chiếc tăng T-34 của Liên Xô, nhưng đó mới chỉ là chương đầu tiên trong cuộc phiêu lưu của mẫu xe tăng huyền thoại này khi nó góp mặt vào hầu hết mọi cuộc xung đột sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 trong suốt hơn 70 năm. Từ sa mạc ở Ai Cập, rừng nhiệt đới ở CuBa đến thảo nguyên ở Angola và xa hơn thế nữa.
Ngày nay, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những chiếc xe tăng T-34 trong các viện bảo tàng quân sự khắp nơi trên thế giới như ở Bosnia và Herzegovina, Việt Nam, Guinea, Guinea-Bissau, Yemen, Triều Tiên, Cộng hòa Congo, Cuba, Lào, Mali và Namibia và nhiều quốc gia khác mà nó từng tham chiến.
Dù đã có tuổi thọ hơn 70 năm nhưng những chiếc T-34 vẫn có thể hoạt động bền bỉ nếu được bảo dưỡng thường xuyên.
 Dù đã có tuổi thọ hơn 70 năm nhưng những chiếc T-34 vẫn có thể hoạt động bền bỉ nếu được bảo dưỡng thường xuyên.
Cuộc chiến tranh qui mô nhất mà T-34 tham gia sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 là Chiến tranh Triều Tiên. Khi đó, những chiếc T-34 của Quân đội Bắc Triều Tiên đã giao chiến các đối thủ của Quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh ở Hàn Quốc. Và tiếp theo sau đó là ở chiến trường CuBa.
Nguồn gốc tăng hạng trung Liên Xô từ Mỹ?
Tuy nhiên, ít người biết rằng lực lượng tăng chiến đấu hạng trung được phát triển từ những năm 1930 của Liên Xô được bắt nguồn từ những mẫu tăng hạng trung M1931 Christie của Mỹ.
Những mẫu xe tăng đầu tiên được chuyển sang Liên Xô theo các đợt đặt hàng lấy danh nghĩa là các máy cày nông nghiệp và chỉ có một ít trong đó là được lắp đặt tháp pháo. Với số mẫu xe tăng Christie và một số biến thể xe tăng của Tây Ban Nha, đã giúp cho nhà thiết kế xe tăng của Liên Xô Mikhail Koshkin phát triển nên nền tảng cơ sở của lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô sau này.
Từ trái qua là các mẫu xe tăng hạng trung : BT-8, A-20, T-34 model 1940 và 1941.
Từ trái qua là các mẫu xe tăng hạng trung : BT-8, A-20, T-34 model 1940 và 1941.
Trong những năm trước khi Chiến tranh Thế giới 2 bùng nổ, Koshkin đã bắt đầu phác thảo các ý tưởng đầu tiên về mẫu xe tăng hạng trung T-34, với các yêu cầu như hệ thống giáp dày, trang bị hỏa lực mạnh mẽ, có khả năng hoạt động bền bỉ ở mọi địa hình và dễ dàng trong quá trình sản xuất, sửa chữa bảo trì.
Những người cha sinh ra T-34
Đợt thử nghiệm đầu tiên của T-34 được đích thân Lãnh đạo Liên Xô lúc đó là Joseph Stalin đến tham dự, và diễn ra tại Moscow vào ngày 17/3/1940. Sau những chiếc xe tăng T-34 được lệnh di chuyển âm thầm về phía Moscow. Vào thời điểm đó đây có thể được xem như một quyết định mạo hiểm, khi những chiếc T-34 phải di chuyển qua hàng loạt khu vực đông dân cư và có thể dễ dàng bị tình báo Đức phát hiện.
Nhưng những chiếc T-34 đã đến địa điểm tập kết đúng thời gian qui định và không có bất kỳ sự cố lớn nào diễn ra trong suốt quảng đường di chuyển. T-34 đã bí mật di chuyển qua những khu rừng đầy tuyết với địa hình gồ ghề và âm thầm tiến vào Moscow. Ấn tượng trước khả năng của những chiếc xe tăng mới, Stalin đã gọi những chiếc T-34 với cái tên là “Én nhỏ”. Ngay sau đó, T-34 đã được đưa vào sản xuất hàng loạt, nhưng khi chưa kịp chứng kiến thành công của đứa con đẻ của mình là T-34 thì Mikhail Koshkin đã qua đời ở tuổi 42 do bệnh viêm phổi.
T-34/85 của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.
 T-34/85 của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Tiếp tục kế thừa công việc đang còn dở dang của T-34 là Alexander Morozov - một trong các kỹ sư và nhà thiết kế xe tăng của Liên Xô cùng với Koshkin tạo nên chiếc T-34. Sau này chính Morozov đã giúp những T-34 phát huy được sức mạnh của mình trên chiến trường và cho mãi đến khi dành được được chiến thắng trước Phát xít Đức.
Vào tháng 12/1943, T-34 xuất hiện với phiên bản nâng cấp là T-34-85 với việc thay đổi thiết kế của tháp pháo, cùng với đó là nó được trang bị pháo chính 85mm đủ khả năng phá hủy bất cứ xe tăng nào của Đức lúc đó. Với phiên bản T-34 mới, lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô dành được ưu thế trên chiến trường trước lực lượng tăng Đức và làm thay đổi hoàn toàn cục diện của cuộc chiến.
T-34-85 vẫn là xương sống của lực lượng xe tăng Liên Xô cho đến giữa những năm 1950, và sau khi được loại khỏi lực lượng tăng chiến đấu thường trực nó được đưa vào phục vụ trong quá trình đào tạo huấn luyện của lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô cho đến những năm 1970. Có một điểm đặc biệt nữa là cho đến tận ngày nay, T-34 vẫn chưa bị loại bỏ chính thức khỏi lực lượng tăng thiết giáp của Nga.
Những chiếc xe tăng T-34 của Quân đội Triều Tiên, chuẩn bị trước giờ xuất kích.
 Những chiếc xe tăng T-34 của Quân đội Triều Tiên, chuẩn bị trước giờ xuất kích.
Bị tăng Mỹ đánh gục ở Triều Tiên
Trong Chiến tranh Triều Tiên , những chiếc xe tăng T-34 của Liên Xô được Quân đội Triều Tiên sử dụng để chống lại Mỹ, Hàn Quốc và các nước đồng minh. Với việc triển khai một số lượng lớn tăng T-34 từ khu vực phi quân sự (DMZ), Quân đội Triều Tiên đã áp đảo hoàn toàn lực lượng Quân đội Hàn Quốc trong giai đoạn đầu của cuộc chiến.
Cuộc đấu tăng đầu tiên trong Chiến tranh Triều Tiên là giữa T-34 và những chiếc xe tăng hạng nhẹ M-24 của Mỹ vào tháng 7/1950. Với lớp vỏ chỉ dày 25mm và trang bị vũ khí yếu kém, ngay trong những giây phút đầu tiên đã có 2 chiếc M-24 của Mỹ bị bắn hạ. Sau đó lực lượng bộ binh Mỹ đã sử dụng cối vác vai Bazooka cỡ nòng 89mm tiêu diệt 7 chiếc T-34 của Quân đội Triều Tiên.
Trước sức mạnh của những chiếc T-34 của quân đội miền bắc, liên quân do Mỹ đứng đầu đã phải triển khai những chiếc xe tăng chiến đấu hạng nặng M-26 Pershing vào tháng 8/1950. M-26 với vũ khí chính là pháo 90mm và lớp vỏ dày đã nhanh chóng loại bỏ 3 chiếc T-34 ngay từ khi tham chiến.
Với kỹ năng chiến thuật tốt hơn và được đào tạo có hệ thống hơn so với Quân đội Bắc Triều Tiên, lực lượng xe tăng của Quân đội Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ chiến trường.
Đến cuối năm 1950 Bắc Triều Tiên đã mất gần 100 chiếc T-34-85 trong những cuộc đấu tăng với quân đội đồng minh, cũng như bị tiêu diệt bởi máy bay chống tăng và súng chống tăng vác vai. Trong khi đó lực lượng tăng thiết giáp Mỹ chỉ mất tổng cộng 34 chiếc.
Lực lượng xe tăng của Quân đội Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên.
 Lực lượng xe tăng của Quân đội Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên.
Trong khi những chiếc T-34/85s gặp khó trước những chiếc xe tăng chiến đấu hạng nặng M-26 và M-46 Patton, thì nó lại dễ dàng hạ gục những chiếc xe tăng hạng nhẹ M-24 và nhỉnh hơn về mặt hỏa lực với những chiếc xe tăng hạng trung M4A3E8 Sherman.
Tung hoành tới...thế kỷ 21
Sau Chiến tranh Triều Tiên, những chiếc T-34 của Liên Xô lại góp mặt tại chiến trường Cuba vào tháng 4/1961 trong sự kiện Vịnh Con lợn. Khi đó, lực lượng vũ trang lưu vong phản cách mạng người Cuba do Mỹ hậu thuẫn tiến hành đổ bộ lên bờ biển nước này nhằm hòng lật đổ chính phủ cách mạng Cuba lúc đó.
Với trang bị gồm 10 chiếc Shermans M4 và 20 chiếc xe bọc thép trinh sát M8, cụm quân này đã bị đánh tan hoàn toàn bởi nhưng chiếc T-34 của Quân đội Cách mạng Cuba trong thời gian ngắn ngủi.
Quân đội Cách mạng Cuba sử dụng T-34 trong một tuyến phòng thủ gần Vịnh Con Lợn.
 Quân đội Cách mạng Cuba sử dụng T-34 trong một tuyến phòng thủ gần Vịnh Con Lợn.
Bản thân lãnh đạo của cách mạng Cuba lúc đó là Fidel Castro, cũng chỉ huy một chiếc T-34 dẫn đầu trong cuộc chiến trên vịnh Con lợn. Đặc biệt chiếc T-34 do ông chỉ huy đã bắn hạ 2 chiếc Shermans ngay khi tham chiến. Với những cuộc chiến mà T-34 đã từng tham gia đã chứng tỏ khả năng của nó trên chiến trường, thậm chí là đối đầu với các thế hệ xe tăng tiến tiến hơn của Phương Tây.
Trong Chiến tranh 6 ngày vào năm 1967, giữa liên quân các nước Ả Rập và Israel. Lực lượng tăng thiết giáp Ai Cập đã mất tới 251 chiếc T-34-85, chiến gần 1/3 tổng số tăng của Quân đội Ai Cập. Ngoài ra, có một điểm khác là những chiếc T-34 của Ai Cập lại chiến đấu bên cạnh những chiếc tăng PzKpfw.IV và StuG.III của Đức quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ 2  được Quân đội Syria sử dụng.
Nhưng trái ngược với Ai Cập, lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria và các nước Ả Rập khác chỉ mất tổng cộng 73 chiếc tăng bao gồm T-34-85, T-54 và PzKpfw.lV, trong khi đó phía Israel bị phá hủy 160 chiếc xe tăng các loại.
Một chiếc T-34 của Quân đội Syria bị bắn hạ ở Cao nguyên Golan.
 Một chiếc T-34 của Quân đội Syria bị bắn hạ ở Cao nguyên Golan. 
Đây cũng là cuộc chiến tranh cuối cùng của T-34 ở Trung Đông, nơi nó được sử dụng như một xe tăng chiến đấu chủ lực. Hiện nay, T-34 vẫn đang được sử dụng ở một số khu vực xung đột ở Trung Đông nhưng chỉ đóng vai trò như pháo tự hành hay các ụ pháo cố định.
Cuộc xung đột tiếp theo của T-34 là vào năm 1974 khi Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đảo Síp đang do Hy Lạp nắm giữ. Hy Lạp đã điều động 32 chiếc T-34-85 đối đầu với 200 chiếc xe tăng M47/48 Patton của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết thúc cuộc chiến Hy Lạp chỉ bị mất 12 chiếc xe tăng trong đó có 4 chiếc là bị bỏ lại, còn Thổ Nhĩ Kỳ bị phá hủy 19 chiếc. Đó là điều rất ngạc nhiên khi những chiếc T-34 khi đó được xem là rất lạc hậu lại đánh thắng xe tăng chiến đấu hiện đại hơn.
Ngoài ra, T-34 còn tham chiến tại Nội chiến tại Angola, khi một đơn vị xe tăng T-34 của Cuba chiến đấu tình nguyện tại quốc gia Châu Phi này. Cuộc xung đột gần đây nhất của T-34 là tại khu vực Balkan, và đều được cả hai bên tham chiến sử dụng. Khi những chiếc T-34 được biên chế cho Quân đội Nam Tư cũ.
Xe tăng chiến đấu chủ lực T-34-85.
 Xe tăng chiến đấu chủ lực T-34-85.
T-34-85 cũng xuất hiện trên chiến trường Việt Nam đầu những năm 1970. Khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng xe tăng T-34-85 tiến công quân Mỹ - Ngụy trong chiến dịch đường 9 Nam Lào tháng 3/1971 trong đội hình Tiểu đoàn 397. Ngoài ra, T-34-85 cũng xuất hiện trên các mặt trận Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (1971-1972), Trị - Thiên - Huế (4/1975) và Lạng Sơn (2/1979). Hiện nay, T-34-85 không còn nằm trong lực lượng trực chiến của quân đội ta nhưng còn nhiều chiếc vẫn nằm trong các kho dự trữ.
Ngày nay, đa số những chiếc T-34 đều nằm trong các viện bảo tàng lịch sử hay được sử dụng như các tượng đài chiến tranh. Nhưng chính vì vậy mà trong thời gian gần đây, đã xuất hiện một số hình ảnh về lực lượng dân quân miền đông Ukraine tìm cách tái dụng những chiếc T-34 nằm trong các viện bảo tàng. Mặc dù khả năng tái sử dụng những chiếc xe tăng này luôn là bài toán khó trả lời.

“Kho” tăng, pháo đa quốc gia của VN trong chiến tranh (2)

Năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Nol (Campuchia), bộ đội ta đã thu được một xe tăng hạng nhẹ AMX-13-75 trong tình trạng pháo không có khóa nòng. Chiếc xe này nằm trong số 40 chiếc mà chính phủ Pháp viện trợ cho Campuchia năm 1971. AMX-13-75 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 10-40mm với kíp xe 3 người. Xe được trang bị pháo chính SA-49 cỡ 75mm với cơ số đạn 32 viên và súng máy cỡ 7,62mm. Ảnh minh họa
Năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Nol (Campuchia), bộ đội ta đã thu được một xe tăng hạng nhẹ AMX-13-75 trong tình trạng pháo không có khóa nòng. Chiếc xe này nằm trong số 40 chiếc mà chính phủ Pháp viện trợ cho Campuchia năm 1971. AMX-13-75 có trọng lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 10-40mm với kíp xe 3 người. Xe được trang bị pháo chính SA-49 cỡ 75mm với cơ số đạn 32 viên và súng máy cỡ 7,62mm. Ảnh minh họa

Ngày 1/4/1972, Đoàn thiết giáp 26 đã sử dụng chiếc AMX-13-75 này (được Việt Nam gọi là M51) tham gia tiến công căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Dù pháo chính không bắn được, kíp lái đã dùng súng máy bắn yểm trợ bộ binh kết hợp với cho động cơ gầm rú uy hiếp tinh thần địch. Sau khi trận đánh kết thúc thắng lợi, xe bị hỏng nặng không thể khôi phục nên nên phải cho phá hủy tại trận địa. Đến đây, chiếc AMX-13-75 duy nhất của lực lượng tăng – thiết giáp Việt Nam đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Ảnh minh họa
Ngày 1/4/1972, Đoàn thiết giáp 26 đã sử dụng chiếc AMX-13-75 này (được Việt Nam gọi là M51) tham gia tiến công căn cứ Xa Mát (Tây Ninh). Dù pháo chính không bắn được, kíp lái đã dùng súng máy bắn yểm trợ bộ binh kết hợp với cho động cơ gầm rú uy hiếp tinh thần địch. Sau khi trận đánh kết thúc thắng lợi, xe bị hỏng nặng không thể khôi phục nên nên phải cho phá hủy tại trận địa. Đến đây, chiếc AMX-13-75 duy nhất của lực lượng tăng – thiết giáp Việt Nam đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Ảnh minh họa

Xe tăng lội nước Type 63 do Trung Quốc thiết kế trên cơ sở xe tăng PT-76 của Liên Xô. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 19,8 tấn, bọc thép 10-14mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ 85mm với cơ số đạn 47 viên, 1 đại liên phòng không Type 54 cỡ 12,7mm và 1 súng máy đồng trục Type 59T cỡ 7,62mm. Trong ảnh là xe tăng Type 63 trên đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975.
 Xe tăng lội nước Type 63 do Trung Quốc thiết kế trên cơ sở xe tăng PT-76 của Liên Xô. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 19,8 tấn, bọc thép 10-14mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính kiểu 62-85TC cỡ 85mm với cơ số đạn 47 viên, 1 đại liên phòng không Type 54 cỡ 12,7mm và 1 súng máy đồng trục Type 59T cỡ 7,62mm. Trong ảnh là xe tăng Type 63 trên đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Ở Việt Nam, Type 63 được biết đến dưới tên gọi PT-85 hoặc K-63-85. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng Type 63 trong giai đoạn 1970-1971. Type 63 xuất trận lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1972 và sau này tiếp tục được bộ đội tăng thiết giáp sử dụng trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ cũng như trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong ảnh là một chiếc xe tăng Type 63 lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thắng 30/4.
Ở Việt Nam, Type 63 được biết đến dưới tên gọi PT-85 hoặc K-63-85. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam nhiều xe  tăng Type 63 trong giai đoạn 1970-1971. Type 63 xuất trận lần đầu trong cuộc tổng tiến công 1972 và sau này tiếp tục được bộ đội tăng thiết giáp sử dụng trong giai đoạn cuối kháng chiến chống Mỹ cũng như trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong ảnh là một chiếc xe tăng Type 63 lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập trong ngày chiến thắng 30/4.

Xe bọc thép chở quân Type 63 do Trung Quốc nghiên cứu phát triển và đưa vào trang bị từ những năm 1960. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 12,6 tấn, vỏ thép nơi dày nhất là 14mm, kíp xe 2 người, được trang bị 1 đại liên Type 54 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh.
Xe bọc thép chở quân Type 63 do Trung Quốc nghiên cứu phát triển và đưa vào trang bị từ những năm 1960. Type 63 có trọng lượng chiến đấu 12,6 tấn, vỏ thép nơi dày nhất là 14mm, kíp xe 2 người, được trang bị 1 đại liên Type 54 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh.

Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971 và được định danh K63. Type 63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.
Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971 và được định danh K63.  Type 63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.

Pháo phòng không tự hành Type 63 do Trung Quốc chế tạo dựa trên khung gầm cơ sở xe tăng Type 58 (sao chép xe tăng T-34 Liên Xô). Xe có trọng lượng chiến đấu 32 tấn, vỏ thép 18-45mm, kíp xe 6 người và được trang bị pháo 2 nòng Type 63 cỡ 37mm. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận được một số pháo Type 63 (định danh là ZSU-37-2) từ Trung Quốc và đã sử dụng làm nhiệm vụ phòng không bảo vệ miền Bắc và tham gia cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong ảnh là một chiếc Type 63 lại bảo tàng Mỹ.
Pháo phòng không tự hành Type 63 do Trung Quốc chế tạo dựa trên khung gầm cơ sở xe tăng Type 58 (sao chép xe tăng T-34 Liên Xô). Xe có trọng lượng chiến đấu 32 tấn, vỏ thép 18-45mm, kíp xe 6 người và được trang bị pháo 2 nòng Type 63 cỡ 37mm. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận được một số pháo Type 63 (định danh là ZSU-37-2) từ Trung Quốc và đã sử dụng làm nhiệm vụ phòng không bảo vệ miền Bắc và tham gia cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong ảnh là một chiếc Type 63 lại bảo tàng Mỹ.

Xe tăng M48 Patton do Mỹ thiết kế từ những năm 1950 và viện trợ cho quân đội Sài Gòn năm 1971. Tính tới thời điểm đầu 1975 thì còn khoảng 160 chiếc. Nhưng ngay từ năm 1965, quân Mỹ bắt đầu sử dụng M48 Patton ở Việt Nam. Biến thể M48A3 có trọng lượng chiến đấu 49,6 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M41 cỡ 90mm, đại liên M2 cỡ 12,7mm và súng máy M73 cỡ 7,62mm.
Xe tăng M48 Patton do Mỹ thiết kế từ những năm 1950 và viện trợ cho quân đội Sài Gòn năm 1971. Tính tới thời điểm đầu 1975 thì còn khoảng 160 chiếc. Nhưng ngay từ năm 1965, quân Mỹ bắt đầu sử dụng M48 Patton ở Việt Nam. Biến thể M48A3 có trọng lượng chiến đấu 49,6 tấn, kíp xe 4 người và trang  bị hỏa lực pháo chính M41 cỡ 90mm, đại liên M2 cỡ 12,7mm và súng máy M73 cỡ 7,62mm.

Trong chiến đấu, ta đã tịch thu được một số chiếc M48A3 và sử dụng trong một vài chiến dịch. Sau ngày đất nước thống nhất, một số ít M48A3 còn lại tiếp tục được huy động tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Tuy nhiên vì nhiều lý do liên quan đến tính năng và hậu cần, loại xe này chỉ được quân đội ta sử dụng một cách khá hạn chế. Trong ảnh là một chiếc M48 trên đường phố Sài Gòn ngày chiến thắng 30/4/1975.
Trong chiến đấu, ta đã tịch thu được một số chiếc M48A3 và sử dụng trong một vài chiến dịch. Sau ngày đất nước thống nhất, một số ít M48A3 còn lại tiếp tục được huy động tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Tuy nhiên vì nhiều lý do liên quan đến tính năng và hậu cần, loại xe này chỉ được quân đội ta sử dụng một cách khá hạn chế. Trong ảnh là một chiếc M48 trên đường phố Sài Gòn ngày chiến thắng 30/4/1975.

Ngoài M48, trong chiến đấu bộ đội ta còn thu giữ được xe tăng hạng nhẹ M41. Đây là thiết kế của Mỹ ra đời năm 1947 nhằm thay thế vai trò xe tăng hạng nhẹ M24. M41 có trọng lượng chiến đấu 23,5 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M32 cỡ 76mm với cơ số đạn 57 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm.
Ngoài M48, trong chiến đấu bộ đội ta còn thu giữ được xe tăng hạng nhẹ M41. Đây là thiết kế của Mỹ ra đời năm 1947 nhằm thay thế vai trò xe tăng hạng nhẹ M24. M41 có trọng lượng chiến đấu 23,5 tấn, kíp xe 4 người và trang bị hỏa lực pháo chính M32 cỡ 76mm với cơ số đạn 57 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm.

Đầu năm 1965, với số lượng lớn được Mỹ viện trợ, M41 trở thành xe tăng chủ lực của quân đội Sài Gòn trong nhiều năm, với con số trên 220 xe ở thời điểm đầu 1975. Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam thu được chiếc M41 đầu tiên trong trận Gò Đậu (Bình Dương) ngày 23/3/1966. Ngày 1/4/1972, lần đầu tiên Đoàn thiết giáp 26 sử dụng xe tăng M41 tham gia chiến đấu trong trận Xa Mát (Tây Ninh), mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. M41 chiến lợi phẩm tiếp tục được thu và tận dụng lại với số lượng lớn, đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975. Sau ngày thống nhất, loại xe này còn tham gia thêm nhiều trận đánh tiêu diệt quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979).
Đầu năm 1965, với số lượng lớn được Mỹ viện trợ, M41 trở thành xe tăng chủ lực của quân đội Sài Gòn trong nhiều năm, với con số trên 220 xe ở thời điểm đầu 1975. Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam thu được  chiếc M41 đầu tiên trong trận Gò Đậu (Bình Dương) ngày 23/3/1966. Ngày 1/4/1972, lần đầu tiên Đoàn thiết giáp 26 sử dụng xe tăng M41 tham gia chiến đấu trong trận Xa Mát (Tây Ninh), mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. M41 chiến lợi phẩm tiếp tục được thu và tận dụng lại với số lượng lớn, đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975. Sau ngày thống nhất, loại xe này còn tham gia thêm nhiều trận đánh tiêu diệt quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979).

Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1944, trang bị cho các đơn vị thiết giáp Mỹ tham chiến trong giai đoạn cuối Thế chiến 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. M24 có trọng lượng chiến đấu 18,4 tấn, vỏ thép 9-38mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 75mm với cơ số đạn 48 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 2 đại liên M1919 cỡ 7,62mm.
Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1944, trang bị cho các đơn vị thiết giáp Mỹ tham chiến trong giai đoạn cuối Thế chiến 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. M24 có trọng lượng chiến đấu 18,4 tấn, vỏ thép 9-38mm, kíp xe 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 75mm với cơ số đạn 48 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 2 đại liên M1919 cỡ 7,62mm.

Xe tăng M24 được Mỹ viện trợ cho nhiều nước đồng minh như Pháp (sử dụng ở chiến trường Đông Dương 1945-1954), quân Lon Nol (Campuchia) và quân đội Sài Gòn. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II, bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7mm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa.
Xe tăng M24 được Mỹ viện trợ cho nhiều nước đồng minh như Pháp (sử dụng ở chiến trường Đông Dương 1945-1954), quân Lon Nol (Campuchia) và quân đội Sài Gòn. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II, bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7mm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa.

Pháo phòng không tự hành M42 Duster được Mỹ thiết kế trên khung gầm cơ sở xe tăng M41. M42 có trọng lượng chiến đấu 24,8 tấn, vỏ thép 9-25mm, kíp xe 4-6 người, trang bị pháo Bofors M2A1 2 nòng cỡ 40mm với cơ số đạn 480 viên và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. Trong thời kỳ 1965-1972, Mỹ đưa đã đưa M42 sang tham chiến Việt Nam với vai trò yểm trợ hỏa lực, chống bộ binh. Nhiều xe sau đó được chuyển giao cho quân đội Sài Gòn, biên chế trong 4 tiểu đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ và sân bay.
Pháo phòng không tự hành M42 Duster được Mỹ thiết kế trên khung gầm cơ sở xe tăng M41. M42 có trọng lượng chiến đấu 24,8 tấn, vỏ thép 9-25mm, kíp xe 4-6 người, trang bị pháo Bofors M2A1 2 nòng cỡ 40mm với cơ số đạn 480 viên và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. Trong thời kỳ 1965-1972, Mỹ đưa đã đưa M42 sang tham chiến Việt Nam với vai trò yểm trợ hỏa lực, chống bộ binh. Nhiều xe sau đó được chuyển giao cho quân đội Sài Gòn, biên chế trong 4 tiểu đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ và sân bay.

Sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ, một số ít xe có khả năng hoạt động được trang bị cho quân đội ta. Tháng 3/1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ K3 của Khmer Đỏ ở biên giới Campuchia-Thái Lan, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 đã sử dụng 5 xe M42 tham gia chi viện hỏa lực, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh đột phá giành thắng lợi.
 Sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ, một số ít xe có khả năng hoạt động được trang bị cho quân đội ta. Tháng 3/1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ K3 của Khmer Đỏ ở biên giới Campuchia-Thái Lan, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 đã sử dụng 5 xe M42 tham gia chi viện hỏa lực, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh đột phá giành thắng lợi.

Trong số các vũ khí hệ 2 từng được quân đội ta sử dụng thì M113 có thể coi là một trong những trường hợp thành công nhất. Loại xe này được Mỹ nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950, M113 có trọng lượng chiến đấu 12,3 tấn, kíp xe 2 người, được trang bị vũ khí chính là đại liên M2 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. M113 lần đầu xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tháng 3/1962 và sau này đóng vai trò là xe chiến đấu bộ binh chủ lực của quân Mỹ, đồng minh cũng như quân đội Sài Gòn trong toàn bộ giai đoạn chiến tranh.
Trong số các vũ khí hệ 2 từng được quân đội ta sử dụng thì M113 có thể coi là một trong những trường hợp thành công nhất. Loại xe này được Mỹ nghiên cứu thiết kế từ cuối những năm 1950, M113 có trọng lượng chiến đấu 12,3 tấn, kíp xe 2 người, được trang bị vũ khí chính là đại liên M2 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. M113 lần đầu xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tháng 3/1962 và sau này đóng vai trò là xe chiến đấu bộ binh chủ lực của quân Mỹ, đồng minh cũng như quân đội Sài Gòn trong toàn bộ giai đoạn chiến tranh.

Sau 1975, quân đội ta đã thu giữ số lượng lớn xe bọc thép M113 từ quân Sài Gòn. Chúng ta đã sử dụng hiệu quả M133 trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1977-1979, thậm chí phần nào lấn át cả vai trò của các loại xe bọc thép khác do Liên Xô và Trung Quốc chế tạo.
Sau 1975, quân đội ta đã thu giữ số lượng lớn xe bọc thép M113 từ quân Sài Gòn. Chúng ta đã sử dụng hiệu quả M133 trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1977-1979, thậm chí phần nào lấn át cả vai trò của các loại xe bọc thép khác do Liên Xô và Trung Quốc chế tạo.

Bên cạnh phiên bản M113 thông thường, quân đội ta còn sử dụng các biến thể chiến đấu và bảo đảm khác gồm: M113 gắn súng không giật M40 106mm hoặc K56 75mm (do Việt Nam cải tiến), M113 ACAV (có tấm chắn cho xạ thủ và thêm 2 súng máy M1919 cỡ 7,62mm), M132 (gắn súng phun lửa và súng máy M73 cỡ 7,62mm), M106 (mang súng cối 106,7mm M30), M125 (mang súng cối 81mm M29), M577 (xe chỉ huy), M548 (xe vận tải xích và cứu kéo). Trong ảnh là biến thể mang súng cối 106,7mm M106.
Bên cạnh phiên bản M113 thông thường, quân đội ta còn sử dụng các biến thể chiến đấu và bảo đảm khác gồm: M113 gắn súng không giật M40 106mm hoặc K56 75mm (do Việt Nam cải tiến), M113 ACAV (có tấm chắn cho xạ thủ và thêm 2 súng máy M1919 cỡ 7,62mm), M132 (gắn súng phun lửa và súng máy  M73 cỡ 7,62mm), M106 (mang súng cối 106,7mm M30), M125 (mang súng cối 81mm M29), M577 (xe chỉ huy), M548 (xe vận tải xích và cứu kéo). Trong ảnh là biến thể mang súng cối 106,7mm M106. 

Xe bọc thép trinh sát V-100 được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1964. Xe có trọng lượng chiến đấu 7,4 tấn, vỏ thép dày nhất khoảng 6mm, kíp xe 3 người và được trang bị 2 súng cỡ 7,62mm. Năm 1967 quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu triển khai V-100 trên chiến trường, trong đó một số xe được cải tiến trang bị thêm 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm hoặc súng M1919 cỡ 7,62mm.
Xe bọc thép trinh sát V-100 được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1964. Xe có trọng lượng chiến đấu 7,4 tấn, vỏ thép dày nhất khoảng 6mm, kíp xe 3 người và được trang bị 2 súng cỡ 7,62mm. Năm 1967 quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu triển khai V-100 trên chiến trường, trong đó một số xe  được cải tiến trang bị thêm 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm hoặc súng M1919 cỡ 7,62mm.

Tính đến đầu năm 1975, quân đội Sài Gòn có khoảng trên 100 xe bọc thép V-100, chủ yếu trang bị cho các đơn vị bảo vệ sở chỉ huy, các đơn vị thiết giáp của địa phương quân và lực lượng cảnh sát dã chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, V-100 chiến lợi phẩm được biên chế cho nhiều đơn vị trinh sát và cảnh vệ thuộc Quân khu 7 hoặc 9 và đã tham gia một số trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam trong giai đoạn 1977-1979. Trong ảnh là xe bọc thép V-100 trong biên chế lực lượng tăng – thiết giáp quân đội ta.
Tính đến đầu năm 1975, quân đội Sài Gòn có khoảng trên 100 xe bọc thép V-100, chủ yếu trang bị cho các đơn vị bảo vệ sở chỉ huy, các đơn vị thiết giáp của địa phương quân và lực lượng cảnh sát dã chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, V-100 chiến lợi phẩm được biên chế cho nhiều đơn vị trinh sát và cảnh vệ thuộc Quân khu 7 hoặc 9 và đã tham gia một số trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam trong giai đoạn 1977-1979. Trong ảnh là xe bọc thép V-100 trong biên chế lực lượng tăng – thiết giáp quân đội ta.

Xe bọc thép trinh sát M8 Greyhound được Mỹ thiết kế chế tạo từ trong Thế chiến thứ 2. Xe có trọng lượng chiến đấu 8,6 tấn, vỏ thép 3-19mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 37mm với cơ số đạn 80 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. M8 Greyhound do Mỹ cung cấp đã tham chiến khá nhiều trên chiến trường Đông Dương trong biên chế quân đội viễn chinh Pháp giai đoạn 1945-1954 và sau đó tiếp tục được quân Lon Nol Campuchia và quân đội Sài Gòn sử dụng ở thời kỳ 1954-1975. Ảnh minh họa
Xe bọc thép trinh sát M8 Greyhound được Mỹ thiết kế chế tạo từ trong Thế chiến thứ 2. Xe có trọng lượng chiến đấu 8,6 tấn, vỏ thép 3-19mm, kíp xe 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 37mm với cơ số đạn 80 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 1 súng máy M1919 cỡ 7,62mm. M8 Greyhound do Mỹ cung cấp đã tham chiến khá nhiều trên chiến trường Đông Dương trong biên chế quân đội viễn chinh Pháp giai đoạn 1945-1954 và sau đó tiếp tục được quân Lon Nol Campuchia và quân đội Sài Gòn sử dụng ở thời kỳ 1954-1975. Ảnh minh họa

Quân đội ta thu được một số xe M8 trong kháng chiến chống Pháp và sau này trong kháng chiến chống Mỹ còn thu thêm 1 xe nữa từ quân Lon Nol trong cuộc hành quân Chenla II cuối năm 1971. Tuy vậy số xe này chủ yếu được dùng vào nhiệm vụ huấn luyện, chưa có ghi nhận trường hợp nào bộ đội tăng thiết giáp đưa nó vào trực tiếp chiến đấu. Trong ảnh là bác Hồ duyệt đội xe bọc thép trinh sát M8.
Quân đội ta thu được một số xe M8 trong kháng chiến chống Pháp và sau này trong kháng chiến chống Mỹ còn thu thêm 1 xe nữa từ quân Lon Nol trong cuộc hành quân Chenla II cuối năm 1971. Tuy vậy số xe này chủ yếu được dùng vào nhiệm vụ huấn luyện, chưa có ghi nhận trường hợp nào bộ đội tăng thiết giáp đưa nó vào trực tiếp chiến đấu. Trong ảnh là bác Hồ duyệt đội xe bọc thép trinh sát M8.

Giải mã sức mạnh “đại bác tự hành” SU của Việt Nam

(Kiến Thức) - SU-100, SU-122, SU-152 là 3 khẩu pháo tự hành tấn công tốt nhất mà Việt Nam có trong trang bị.

Tin mới