Đại thương cảng thế kỷ XII
Mấy hôm trời lạnh căm căm, chúng tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê nơi quán cũ tại một góc nhỏ ở Hạ Long, Quảng Ninh. Bất chợt, ông em nhà văn, nhà báo nửa mùa nhắc tới cái tên Vạn Ninh, TP Móng Cái với vẻ luyến tiếc lạ lùng. Chẳng biết gã có duyên nợ gì với mảnh đất ấy mà kể về thương cảng năm xưa với đam mê kỳ lạ. Gã phân trần: "Trước kia, nơi đây là thương càng bậc nhất cả nước, nhưng thời hoàng kim này cũng sớm chìm vào quá vãng... nghĩ lại mà thấy tiếc". Rồi cái sự say mê của kẻ tầm chương bất đạo đã để lại sự tò mò cho chúng tôi về một vùng đất tưởng chừng bình thường như bao nơi khác nhưng lại ẩn chứa trong mình lịch sử huy hoàng, đáng tự hào.
Nhớ một lần đến Vạn Ninh, ngồi trò chuyện cùng Ông Trần Văn Lấn, 88 tuổi, thôn Nam, xã Vạn Ninh, người nắm khá rõ về lịch sử thương cảng. Ông Lấn tiết lộ: Tên cổ của Vạn Ninh là làng Bần hay làng Đồng Chùa, được vua Lý Anh Tông thành lập vào thế kỷ XII khi thấy nơi đây có nhiều tiềm năng cho sự giao thương đường thủy. Tuy rằng, bến Vạn Ninh thành lập sau và nhỏ hơn bến Vân Đồn nhưng đã nhanh chóng trở thành thương cảng huyết mạch. Trước đó, việc thông thương, buôn bán giữa nước ta với các nước khác chủ yếu bằng đường bộ, thế nên việc thành lập thương cảng Vạn Ninh được coi như cuộc cách mạng trong thương nghiệp.
Cảng Vạn Ninh cùng với con sông Thác Mang (nay là sông Ka Long) đã tạo điều kiện để giao thương với Trung Quốc thuận lợi hơn rất nhiều. Người dân hai nước đã buôn bán qua dòng sông sông Ka Long cho nên nơi này đã sớm trở thành nơi đông vui, trên bến dưới thuyền.
![]() |
Ngư dân bắt cá ở vùng biển thuộc thương cảng Vạn Ninh xưa. |
Trong lúc đi tìm tư liệu về cảng Vạn Ninh xưa, chúng tôi được ông Nguyễn Quang Vinh, người có nhiều năm nghiên cứu về lịch sử và văn hóa vùng biên cung cấp cho nhiều tài liệu quý giá về thương cảng xưa. Theo đó, thương cảng Vạn Ninh là nơi hội tụ của người Hoa và người Việt đến ở hoặc đi lại buôn bán. Ngoài số nông dân, ngư dân di cư sang sinh sống lâu dài ở khắp làng xóm, hải đảo thì còn rất nhiều thương nhân sang buôn bán và sinh sống ở các thành phố. Người Hoa chỉ được cư trú ở một số nơi nhất định. Năm 1764, chúa Trịnh Doanh quy định những thương nhân Trung Quốc sang biên giới chỉ được ở Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), Triều Khẩu (Thanh Hóa), Vân Đồn và Vạn Ninh của tỉnh Quảng Ninh bây giờ.
Sử sách của Ngô Thì Sĩ có ghi rằng, Đàng Ngoài, đến thế kỷ XVIII có khoảng 3,6 vạn người Hoa ở rải rác nhiều nơi, hoặc buôn bán, hoặc khai mỏ, hoặc làm ruộng, nhưng phần lớn buôn bán ở các thành phố, thị tứ, thương cảng và khai mỏ ở vùng thượng du.
Thương cảng phát triển, ngày càng nhiều thương lái đến đây. Việc buôn bán tại các cửa quan xung quanh đô thị Móng Cái - Vạn Ninh đã được mở rộng hơn nhưng lại siết chặt về thuế. Đến thời Nhà Nguyễn thì quy định khá khắt khe về việc đóng thuế ở cảng Vạn Ninh như sau: Tiền thuế thường niên ở cửa quan này được quy định ở cửa An Lương với một cửa chính, một cửa phụ ở An Dương: khoảng 7.000 - 8.000 quan, tháng nhuận thêm 1 tháng, cộng 8.666 quan, lệ nộp nửa bạc nửa tiền.
![]() |
Một góc Vạn Ninh ngày nay. |
Bên cạnh những quy định về ngạch thuế cửa quan, triều Nguyễn còn đưa ra nhiều thể lệ đánh thuế thuyền buôn các nước đến buôn bán ở Việt Nam. Dưới thời Gia Long, đối với các thuyền buôn của Trung Quốc từ Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải của phải đóng 4.000 quan. Đó là tiền thuế dâng vua, lễ quan cai tàu, thuế cảng và tiền các lễ.
Đến triều Minh Mạng còn quy định đánh thuế thuyền buôn theo căn cứ một cách oái oăm. Đó là việc tính chiều rộng của lòng thuyền hoặc địa danh đến và nơi thông thương thuộc vùng nào của Việt Nam. Thí dụ nếu: "Thuyền buôn từ phủ Quảng Châu, phủ Triều Châu - châu Nam Hùng, phủ Huệ Châu, phủ Phúc Kiến... rộng 25 thước đến 14 thước (từ 6,1 - 3,5m) mà đến buôn ở Vạn Ninh (thuộc Quảng Yên, Bắc Thành) thì mỗi thước (0,40m) tiền thuế là 120 quan".
Ông Vinh cho rằng, còn rất nhiều tài liệu ghi chép về những trạm kiểm soát hàng hóa. Trong đó, có nhiều sách nói khá rõ về các loại thuế trên đất liền, trên nhiều hòn đảo, nhiều bến sông theo đường thủy vào sâu trong đất liền.
![]() |
Ông Nguyễn Quang Vinh cho rằng, thương cảng Vạn Ninh đã từng được coi là nơi giao lưu buôn bán sầm uất nhất vùng biên. |
Cái "chết" của thương cảng bậc nhất Việt Nam
Dư địa chí tỉnh của tỉnh Quảng Ninh đã ghi rõ rằng: Sau một thời gian dài thuyền buôn các nước, nhất là thuyền buôn Trung Quốc, ra vào buôn bán khá nhộn nhịp sầm uất, thì từ đầu thế kỷ XX đến nay, thương cảng "vang bóng một thời" ấy cũng chỉ là những bến thuyền nhỏ nhoi, lẻ tẻ đậu ở bến Vạn Ninh.
Nhắc đến sự biến mất của cảng Vạn Ninh, ông Vinh chẹp miệng, buông tiếng thở dài đầy tiếc nuối. Nguyên nhân căn bản dẫn đến "cái chết" từ từ của thương cảng Vạn Ninh là vì cảng nằm bên cạnh cửa sông Ka Long - một con sông hẹp, lưu lượng nước ít, nhiều ghềnh thác, cửa sông lại thường xuyên bị phù sa bồi lấp. Trải qua sự bồi đắp của thời gian, bến Vạn Ninh cũng bị phù sa lắng đọng, tàu thuyền lớn không thể vào được. Mặc dù có vị trí huyết mạch nhưng thương cảng Vạn Ninh đã không thể trở thành Vân Đồn thứ hai của tỉnh Quảng Ninh. Có thể lý giải rằng, điều kiện tự nhiên đã không cho thương cảng Vạn Ninh có điều kiện để tôn tạo và phát triển thành thương cảng thời hiện đại.
Chính vì vậy, thương cảng Vạn Ninh đã chuyển nhượng vị trí đắc địa đó cho một thương cảng xứng tầm hơn. Trước đó, thương nhân cũng đã chọn cảng Thọ Xuân trên sông Ka Long, rất gần biên giới, thuận tiện nhiều mặt nhưng tàu lớn không vào được. Do vậy, họ đã chuyển sang cảng Vạn Gia trên đảo Vĩnh Thực (Móng Cái). Cảng Vạn Gia đã hội đủ những điều kiện để trở thành một thương cảng có khả năng tiếp nhận những con tàu trọng tải lớn. Thương cảng Vạn Gia sẽ tiếp tục truyền thống sầm uất của cảng Hội Điển.
Cảng biển Vạn Gia chỉ cách xã Vạn Ninh vài km đường biển. Vào ngày đẹp trời, trời yên, biển lặng, có thể đứng từ Vạn Ninh nhìn khá rõ bến thuyền Vạn Gia. "Có thể nói rằng, Vạn Ninh đã không biến mất hoàn toàn mà đã "hóa thân" thành Vạn Gia. Vạn Gia đóng vai trò là một thương cảng vệ tinh của độ thị cổ Móng Cái. Và, bây giờ, thương cảng đã góp phần làm thay đổi diện mạo của thành phố vùng biên ngày nay", ông Vinh cho biết.
Hiện nay, ở xã Xã Vạn Ninh vẫn còn tồn tại cả một hệ thống bến thuyền hình thành từ cách đây nhiều thế kỷ như bến Vạ Rạt, bến Cây Gạo, bến Dóc, bến Đá Chồng, di chỉ Thoi Giếng là một trong những di tích nổi tiếng còn sót lại của thương cảng năm xưa.