“Cảng xưa” rày đã nên đồng

(Kiến Thức) - Xã Vạn Ninh, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh từng là thương cảng bậc nhất Việt Nam cách đây non ngàn năm...

Đại thương cảng thế kỷ XII
Mấy hôm trời lạnh căm căm, chúng tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê nơi quán cũ tại một góc nhỏ ở Hạ Long, Quảng Ninh. Bất chợt, ông em nhà văn, nhà báo nửa mùa nhắc tới cái tên Vạn Ninh, TP Móng Cái với vẻ luyến tiếc lạ lùng. Chẳng biết gã có duyên nợ gì với mảnh đất ấy mà kể về thương cảng năm xưa với đam mê kỳ lạ. Gã phân trần: "Trước kia, nơi đây là thương càng bậc nhất cả nước, nhưng thời hoàng kim này cũng sớm chìm vào quá vãng... nghĩ lại mà thấy tiếc". Rồi cái sự say mê của kẻ tầm chương bất đạo đã để lại sự tò mò cho chúng tôi về một vùng đất tưởng chừng bình thường như bao nơi khác nhưng lại ẩn chứa trong mình lịch sử huy hoàng, đáng tự hào.
Nhớ một lần đến Vạn Ninh, ngồi trò chuyện cùng Ông Trần Văn Lấn, 88 tuổi, thôn Nam, xã Vạn Ninh, người nắm khá rõ về lịch sử thương cảng. Ông Lấn tiết lộ: Tên cổ của Vạn Ninh là làng Bần hay làng Đồng Chùa, được vua Lý Anh Tông thành lập vào thế kỷ XII khi thấy nơi đây có nhiều tiềm năng cho sự giao thương đường thủy. Tuy rằng, bến Vạn Ninh thành lập sau và nhỏ hơn bến Vân Đồn nhưng đã nhanh chóng trở thành thương cảng huyết mạch. Trước đó, việc thông thương, buôn bán giữa nước ta với các nước khác chủ yếu bằng đường bộ, thế nên việc thành lập thương cảng Vạn Ninh được coi như cuộc cách mạng trong thương nghiệp. 
Cảng Vạn Ninh cùng với con sông Thác Mang (nay là sông Ka Long) đã tạo điều kiện để giao thương với Trung Quốc thuận lợi hơn rất nhiều. Người dân hai nước đã buôn bán qua dòng sông sông Ka Long cho nên nơi này đã sớm trở thành nơi đông vui, trên bến dưới thuyền.
Ngư dân bắt cá ở vùng biển thuộc thương cảng Vạn Ninh xưa.
Ngư dân bắt cá ở vùng biển thuộc thương cảng Vạn Ninh xưa. 
Trong lúc đi tìm tư liệu về cảng Vạn Ninh xưa, chúng tôi được ông Nguyễn Quang Vinh, người có nhiều năm nghiên cứu về lịch sử và văn hóa vùng biên cung cấp cho nhiều tài liệu quý giá về thương cảng xưa. Theo đó, thương cảng Vạn Ninh là nơi hội tụ của người Hoa và người Việt đến ở hoặc đi lại buôn bán. Ngoài số nông dân, ngư dân di cư sang sinh sống lâu dài ở khắp làng xóm, hải đảo thì còn rất nhiều thương nhân sang buôn bán và sinh sống ở các thành phố. Người Hoa chỉ được cư trú ở một số nơi nhất định. Năm 1764, chúa Trịnh Doanh quy định những thương nhân Trung Quốc sang biên giới chỉ được ở Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), Triều Khẩu (Thanh Hóa), Vân Đồn và Vạn Ninh của tỉnh Quảng Ninh bây giờ.
Sử sách của Ngô Thì Sĩ có ghi rằng, Đàng Ngoài, đến thế kỷ XVIII có khoảng 3,6 vạn người Hoa ở rải rác nhiều nơi, hoặc buôn bán, hoặc khai mỏ, hoặc làm ruộng, nhưng phần lớn buôn bán ở các thành phố, thị tứ, thương cảng và khai mỏ ở vùng thượng du. 
Thương cảng phát triển, ngày càng nhiều thương lái đến đây. Việc buôn bán tại các cửa quan xung quanh đô thị Móng Cái - Vạn Ninh đã được mở rộng hơn nhưng lại siết chặt về thuế. Đến thời Nhà Nguyễn thì quy định khá khắt khe về việc đóng thuế ở cảng Vạn Ninh như sau: Tiền thuế thường niên ở cửa quan này được quy định ở cửa An Lương với một cửa chính, một cửa phụ ở An Dương: khoảng 7.000 - 8.000 quan, tháng nhuận thêm 1 tháng, cộng 8.666 quan, lệ nộp nửa bạc nửa tiền.
Một góc Vạn Ninh ngày nay.
Một góc Vạn Ninh ngày nay. 
Bên cạnh những quy định về ngạch thuế cửa quan, triều Nguyễn còn đưa ra nhiều thể lệ đánh thuế thuyền buôn các nước đến buôn bán ở Việt Nam. Dưới thời Gia Long, đối với các thuyền buôn của Trung Quốc từ Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải của phải đóng 4.000 quan. Đó là tiền thuế dâng vua, lễ quan cai tàu, thuế cảng và tiền các lễ. 
Đến triều Minh Mạng còn quy định đánh thuế thuyền buôn theo căn cứ một cách oái oăm. Đó là việc tính chiều rộng của lòng thuyền hoặc địa danh đến và nơi thông thương thuộc vùng nào của Việt Nam. Thí dụ nếu: "Thuyền buôn từ phủ Quảng Châu, phủ Triều Châu - châu Nam Hùng, phủ Huệ Châu, phủ Phúc Kiến... rộng 25 thước đến 14 thước (từ 6,1 - 3,5m) mà đến buôn ở Vạn Ninh (thuộc Quảng Yên, Bắc Thành) thì mỗi thước (0,40m) tiền thuế là 120 quan". 
Ông Vinh cho rằng, còn rất nhiều tài liệu ghi chép về những trạm kiểm soát hàng hóa. Trong đó, có nhiều sách nói khá rõ về các loại thuế trên đất liền, trên nhiều hòn đảo, nhiều bến sông theo đường thủy vào sâu trong đất liền. 
Ông Nguyễn Quang Vinh cho rằng, thương cảng Vạn Ninh đã từng được coi là nơi giao lưu buôn bán sầm uất nhất vùng biên.
Ông Nguyễn Quang Vinh cho rằng, thương cảng Vạn Ninh đã từng được coi là nơi giao lưu buôn bán sầm uất nhất vùng biên. 
Cái "chết" của thương cảng bậc nhất Việt Nam
Dư địa chí tỉnh của tỉnh Quảng Ninh đã ghi rõ rằng: Sau một thời gian dài thuyền buôn các nước, nhất là thuyền buôn Trung Quốc, ra vào buôn bán khá nhộn nhịp sầm uất, thì từ đầu thế kỷ XX đến nay, thương cảng "vang bóng một thời" ấy cũng chỉ là những bến thuyền nhỏ nhoi, lẻ tẻ đậu ở bến Vạn Ninh.
Nhắc đến sự biến mất của cảng Vạn Ninh, ông Vinh chẹp miệng, buông tiếng thở dài đầy tiếc nuối. Nguyên nhân căn bản dẫn đến "cái chết" từ từ của thương cảng Vạn Ninh là vì cảng nằm bên cạnh cửa sông Ka Long - một con sông hẹp, lưu lượng nước ít, nhiều ghềnh thác, cửa sông lại thường xuyên bị phù sa bồi lấp. Trải qua sự bồi đắp của thời gian, bến Vạn Ninh cũng bị phù sa lắng đọng, tàu thuyền lớn không thể vào được. Mặc dù có vị trí huyết mạch nhưng thương cảng Vạn Ninh đã không thể trở thành Vân Đồn thứ hai của tỉnh Quảng Ninh. Có thể lý giải rằng, điều kiện tự nhiên đã không cho thương cảng Vạn Ninh có điều kiện để tôn tạo và phát triển thành thương cảng thời hiện đại. 
Chính vì vậy, thương cảng Vạn Ninh đã chuyển nhượng vị trí đắc địa đó cho một thương cảng xứng tầm hơn. Trước đó, thương nhân cũng đã chọn cảng Thọ Xuân trên sông Ka Long, rất gần biên giới, thuận tiện nhiều mặt nhưng tàu lớn không vào được. Do vậy, họ đã chuyển sang cảng Vạn Gia trên đảo Vĩnh Thực (Móng Cái). Cảng Vạn Gia đã hội đủ những điều kiện để trở thành một thương cảng có khả năng tiếp nhận những con tàu trọng tải lớn. Thương cảng Vạn Gia sẽ tiếp tục truyền thống sầm uất của cảng Hội Điển. 
Cảng biển Vạn Gia chỉ cách xã Vạn Ninh vài km đường biển. Vào ngày đẹp trời, trời yên, biển lặng, có thể đứng từ Vạn Ninh nhìn khá rõ bến thuyền Vạn Gia. "Có thể nói rằng, Vạn Ninh đã không biến mất hoàn toàn mà đã "hóa thân" thành Vạn Gia. Vạn Gia đóng vai trò là một thương cảng vệ tinh của độ thị cổ Móng Cái. Và, bây giờ, thương cảng đã góp phần làm thay đổi diện mạo của thành phố vùng biên ngày nay", ông Vinh cho biết.
Hiện nay, ở xã Xã Vạn Ninh vẫn còn tồn tại cả một hệ thống bến thuyền hình thành từ cách đây nhiều thế kỷ như bến Vạ Rạt, bến Cây Gạo, bến Dóc, bến Đá Chồng, di chỉ Thoi Giếng là một trong những di tích nổi tiếng còn sót lại của thương cảng năm xưa.

Bí mật dưới đáy Vịnh Hạ Long

Trong suốt nhiều thế kỷ, Hạ Long là điểm trung chuyển gốm sứ từ nội địa ra nước ngoài. Trong hàng ngàn, hàng vạn con tàu ra vào ngày đó, liệu có con tàu nào xấu số nằm lại đáy Vịnh?

Gần đây, tại vùng Bình Châu, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), cách bờ chỉ khoảng 100m, ngư dân địa phương đã phát hiện một con tàu đắm chở đầy đồ gốm sứ cổ. Theo giám định của các chuyên gia cổ vật, số cổ vật gốm sứ trên gồm bát, đĩa, vò, âu, chậu… là đồ gốm sứ men ngọc thời Nguyên (TK 13-14). Căn cứ tro bám trong san hô và chồng bát đĩa, các chuyên gia nhận định khả năng tàu bị cháy dẫn đến chìm…

Vậy còn ở Vịnh Hạ Long thì sao? Trong suốt nhiều thế kỷ, Hạ Long là điểm trung chuyển gốm sứ từ nội địa ra nước ngoài. Trong hàng ngàn, hàng vạn con tàu ra vào ngày đó, liệu có con tàu nào xấu số nằm lại đáy Vịnh?

Tính đến nay, các nhà khảo cổ đã xác minh, thống kê được hàng chục bến thuyền cổ trong hệ thống Thương cảng Vân Đồn, tồn tại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 17. Các bến này không chỉ phân bố cả các đảo phía ngoài, ven bờ mà còn rải rác một số vụng, đảo trong vùng lõi của di sản Vịnh Hạ Long. Hàng chục năm qua, đã có rất nhiều cuộc khảo sát ven bờ, cửa sông, trên các đảo của các nhà khảo cổ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học dưới đáy Vịnh Hạ Long gần như chưa được thực hiện.
Lon sành thời Mạc (TK 16 - 17) do ngư dân làng chài Vung Viêng vớt được dưới đáy Vịnh Hạ Long năm 2009.
Lon sành thời Mạc (TK 16 - 17) do ngư dân làng chài Vung Viêng vớt được dưới đáy Vịnh Hạ Long năm 2009.

Cách đây mấy năm, một số ngư dân ở Vân Đồn làm nghề lặn biển đã từng mò được cổ vật tại một luồng lạch thuộc Vịnh Bái Tử Long. Tại các làng chài Ba Hang, Vung Viêng, ngư dân ở đây lặn mò hải sản vẫn thường nhặt được những lon sành, bát, đĩa gốm có niên đại thời Mạc (TK 16-17). Những dấu vết đó cho thấy giả thiết có những con tàu cổ bị đắm trên Vịnh Hạ Long là có cơ sở. Tuy nhiên, lại có ý kiến cho rằng, với mật độ, tốc độ dùng lưới quét, lưới cào của ngư dân trên Vịnh Hạ Long như hiện nay, khó có con tàu đắm nào dưới đáy vịnh mà không bị phát hiện (?).

Còn nhớ trên tạp chí Xưa và Nay, số tháng 7/2007 của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, có đăng bài của tác giả Hồ Đắc Duy đề cập tới sự kiện đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị quân và dân nhà Trần tiêu diệt trên Vịnh Hạ Long năm 1288. Tác giả đặt câu hỏi vậy những xác thuyền, vật dụng đi theo nó hiện giờ nằm ở đâu?

Căn cứ, đối chiếu với các tư liệu lịch sử của cả Việt Nam và Trung Quốc và trên thực tế địa lý, địa hình của Vịnh Hạ Long, tác giả cho rằng trận hải chiến trên xảy ra vào khoảng ngày 3 tháng 1 năm 1288 cho đến ngày 6 tháng 1 năm 1288. Vị trí diễn ra trận đánh quyết định giới hạn ở khoảng toạ độ 107 độ 23 phút kinh đông và 20 độ 44 phút vĩ bắc, tức là ở khoảng giữa các đảo Thượng Mai, Hạ Mai, Phượng Hoàng và đảo Nấc Đất.

Tác giả kết luận, nếu tìm dưới đáy biển ắt sẽ có xác thuyền, ít nhất cũng là vài cái chén, tô, lu, vại, gươm giáo, tiền đồng của quân Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII… Những gì mà tác giả Hồ Đắc Duy đưa ra là khá thú vị. Nó không mới nhưng lại chưa bao giờ được ai, cơ quan nào đặt vấn đề quan tâm, tìm hiểu.

Thời người Pháp chiếm đóng khu mỏ Quảng Ninh, mặc dù có tàu sắt tiên tiến, hệ thống thiết bị phục vụ đi biển tốt kèm theo, nhưng người Pháp vẫn để xảy ra các vụ đắm tàu trên Vịnh Hạ Long. Tại khu vực biển gần hòn Con Cóc và làng chài Cửa Vạn có một con tàu sắt thời Pháp bị đắm. Mấy năm qua, thậm chí đến gần đây vẫn có một nhóm người Hải Phòng đưa thiết bị ra lặn xuống cắt lấy sắt để bán.

Được biết, khảo cổ học dưới biển đối với Việt Nam cho tới nay vẫn là một ngành khoa học mới mẻ, do chúng ta thiếu các phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại. Vịnh Hạ Long cho tới nay hầu như chưa có cuộc khảo sát khảo cổ dưới nước nào được thực hiện, một phần cũng bởi lý do trên. Đằng sau những câu hỏi về xác tàu đắm của quân Mông Cổ, thì ngược lại chính những bí mật chưa được giải đáp ấy lại góp phần tạo nên những câu chuyện kỳ bí của Vịnh Hạ Long, làm tăng tính hấp dẫn của di sản, kỳ quan.

(Theo Báo Quảng Ninh)

Tiếc làng chiếu cải

Làng chiếu cải có một không hai ở Việt Nam với lịch sử gần 200 năm làm nghề đang ở đoạn cuối của cuộc suy tàn. Xưa bao nhiêu con người cặm cụi làm chiếu dệt "cuốn chiếu thư", thì bây giờ con số ấy chỉ đếm trên đầu ngón tay để rồi tiếc rẻ một thời đã qua.

Ông Chủ tịch cũng tiếc

Trước khi về thôn Bồng Hải, xã Khánh Thiện (Yên Khánh, Ninh Bình), chúng tôi đã phải lần giở những cuốn sách cũ viết về làng nghề Việt Nam mới sững người khi biết Bồng Hải là nơi duy nhất của nước Nam ta dệt chiếu kiểu "cuốn chiếu thư" bằng những hình đan thủ công chứ không theo kiểu in hình phẩm như những nơi khác.

Hơn thế nữa, đây còn là làng nghề với lịch sử gần 200 năm tồn tại và phát triển, làng dựa vào dòng sông Đáy để giao thương với người Nhật Bản, người Trung Quốc từ những năm 1840. Cái căn cơ cốt lõi để người nước ngoài đến với Bồng Hải là ở chiếu cải "đệ nhất" ấy, còn bây giờ, buồn không dám nhắc tới nữa.

"Không dám nhắc nhưng vẫn phải nhắc, nhắc để biết đâu có cơ hội mà bảo tồn mà phát triển đấy nhà báo ạ! Chứ nếu không bảo tồn nhanh thì chỉ một vài năm nữa thôi, tôi đảm bảo cái tên chiếu cải sẽ bị xóa sổ khỏi thế giới này", ông Phạm Minh Xanh, Chủ tịch UBND xã Khánh Thiện cho hay.

Nói rồi, ông Hải đem cuốn lịch sử địa phương, lật giở đến trang viết về nghề chiếu cải đã có từ xa xưa của xứ sở ven dòng sông Đáy. Ông đọc từng chữ rành rọt: "Khánh Thiện có điều kiện phát triển thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, hầu hết nhân dân đều có nghề dệt chiếu xe đay. Năm 1888, chiếu Bồng Hải đã bán ra nước ngoài. Ở đây có xưởng dệt chiếu Quảng Hòa và xưởng xe đay Minh Tín của người Hoa, người Nhật", ông Xanh ngừng đọc, ngẩng lên bảo: "Đến người Nhật, người Trung còn biết về đây để học hỏi, làm ăn kinh doanh mà bây giờ chúng ta lại không thèm làm".

Ông Xanh còn cho biết thêm, chiếu cải Bồng Hải không chỉ nổi tiếng trên thị trường thế giới từ những năm 1900 mà sau này, thương nhân Bạch Thái Bưởi còn cho tàu lớn xuôi xuống Bồng Hải lấy chiếu xuất sang các nước Hồng Kông, Đài Loan... Khánh Thiện như một thương cảng lớn và nhộn nhịp.

2 người làm liên tục 7 tiếng sẽ hoàn thành 1 đôi chiếu cải.
2 người làm liên tục 7 tiếng sẽ hoàn thành 1 đôi chiếu cải.

Người dân bảo: Đành chịu

Ở Bồng Hải, ai cũng biết chiếu cải quê mình là sản phẩm cao cấp, có lịch sử có "danh" và chỗ đứng trên thị trường cả trăm năm nay nhưng hầu hết người làng đều lắc đầu: Đành chịu.

Sự "đành chịu" mà người Bồng Hải ngao ngán ở nhiều khía cạnh, theo giải thích của ông Trưởng thôn Vũ Tài Chính là ở vấn đề thị trường khi chiếu nước ngoài được nhập về giá rẻ, chiếu cải giá đắt nên không bán được, không bán được thì người làm nghề phải chịu đói.

Không chịu đói được thì người ta bỏ nghề làm chiếu, sang làm nghề khác nhiều tiền hơn. Lớp trẻ cũng không ai thèm làm chiếu nữa, ngồi liên tục cả ngày để đan từng sợi, làm từng ô chữ, khung hình thì không đủ kiên nhẫn.

Cái "đành chịu" nữa là các cụ yêu nghề có bảo ban, có khuyên giải thế nào thì con cháu cũng không chịu nghe, không chịu theo nghề. "Ngay chính tôi đây này, học nghề bao nhiêu năm rồi cũng phải bỏ, vì nhiều vấn đề, biết đấy nhưng đành chịu", ông Chính chia sẻ.

Làm một phép tính đơn giản cũng thấy được sự mai một của nghề làm chiếu cải khủng khiếp thế nào. Chỉ hơn chục năm trước, Bồng Hải có 251 hộ làm chiếu, nghĩa là tất cả các hộ đều làm. Còn bây giờ, sau một hồi thống kê, rà đi soát lại kỹ lưỡng cũng chỉ còn được 4 hộ. Tính trung bình mỗi hộ 2 người thì cả thôn chỉ có 8 thợ, 8 thợ này thì 7 người đã là cao niên, một người là phụ nữ cũng đã trung niên và đang có ý định bỏ nghề.

Lời ông Chủ tịch xã Phạm Minh Xanh về nỗi lo "tuyệt chủng" chiếu cải là có lý và đáng báo động. Nhất là với một làng nghề có lịch sử lâu đời, từng là nơi giao thương buôn bán, quảng bá chiếu Việt ra thị trường thế giới.
Làm "khuôn" dệt chiếu cải.
Làm "khuôn" dệt chiếu cải.
Công cao nhưng không ai làm

"Ở các làng nghề khác, nếu họ bỏ nghề là bởi lý do công thấp, lợi nhuận ít thì còn có lý. Đằng này, công cao nhưng không ai chịu làm mới là điều đáng nói", ông Xanh cho biết.

Theo ông Xanh, một đôi chiếu cải Bồng Hải có giá 550.000đ, trừ chi phí nguyên vật liệu đi 150.000đ thì vẫn còn lãi những 400.000đ. Còn theo bà Nguyễn Thị Dậu - người vẫn đang làm nghề thì: "Dệt chiếu cải cần 2 người làm, một người dập sợi và một người đưa sợi, ngồi liên tục miệt mài 7 tiếng đồng hồ thì xong một đôi chiếu, tính ra nếu chăm chỉ làm thì mỗi người thu nhập cũng được 200.000đ/7 tiếng làm việc".

Ông Hoàng Cự ở Bồng Hải, 1 trong 4 hộ vẫn đang làm chiếu cho hay: "Chiếu cải chưa bao giờ thất thế về kỹ thuật đối với các sản phẩm chiếu trên thế giới, người ta vẫn lùng sục, đặt hàng đấy nhưng vì lớp trẻ không đủ kiên trì ngồi làm mà thôi".

Bà Dậu còn cho biết, trước đây ở làng có hai nghệ nhân nổi tiếng là cụ Nuôi và cụ Nhuận, 2 cụ đã đi dọc khắp đất nước để truyền nghề. Nhưng thấy dệt chiếu cải khó quá, tỉ mỉ quá nên không nơi nào học được.

Chiếu cải chỉ có 3 mẫu chính là "riễu cuốn thư" tức là các hoa văn viền chiếu như một bức thư cuốn lại. Mẫu thứ hai là "sỏi văn" và mẫu thứ ba là "thất thể 7 màu", mẫu thứ 3 này đã bị bỏ từ lâu.

Điều đáng chú ý là từng chi tiết, hình họa trên chiếu cải đều được nghệ nhân dệt hình sau đó mới quét phẩm chứ không dệt thông thường là làm thô rồi in hình theo khuôn chữ in sẵn. Vì vậy, chiếu cải Bồng Hải vừa bền, vừa đẹp lại rất êm ái, độ dày gấp đôi chiếu thường, là một trong những sản phẩm thủ công tuyệt mỹ nhất.

Chính những ưu điểm có một không hai ấy mà người Bồng Hải đang luyến tiếc sản phẩm của mình. Nói đến bảo tồn nghề truyền thống, ai muốn, cũng  háo hức nhưng kết lại vẫn đều chậc miệng: "Đành chịu".

Vụ kiện cưỡng dâm của kiều nữ Hải Dương diễn biến thế nào?

(Kiến Thức) - Câu chuyện kiều nữ Hải Dương bị tố cưỡng dâm hàng loạt tài xế taxi, sau khi bà Ngọc về nước làm rõ trắng đen, kết quả thế nào?

Đã hơn 1 tháng từ ngày bà Phạm Thị Thanh Ngọc (SN 1974), người bị gọi là “kiều nữ Hải Dương” từ Mỹ trở về nước để làm rõ vụ việc một tờ báo đã đăng loạt bài viết cho rằng, bà Ngọc có hành vi hiếp dâm hàng loạt tài xế taxi của hãng Mai Linh.

Đã hơn 1 tháng từ ngày bà Phạm Thị Thanh Ngọc (SN 1974), người bị gọi là “kiều nữ Hải Dương” từ Mỹ trở về nước để làm rõ vụ việc một tờ báo đã đăng loạt bài viết cho rằng, bà Ngọc có hành vi hiếp dâm hàng loạt tài xế taxi của hãng Mai Linh.

Đọc nhiều nhất

Tin mới