Binh lính thời cổ đại thường tranh nhau đi áp giải các nữ phạm nhân

Nguyên nhân của việc này thậm chí còn đáng sợ và sâu xa hơn nhiều so với tưởng tượng của hậu thế ngày nay.

Nếu đã từng xem những bộ phim cổ trang Trung Hoa, hẳn nhiều người cũng không còn xa lạ với hình ảnh phạm nhân bị lưu đày ra biên ải hoặc bị áp giải tới địa phương nào đó để chịu phạt.

Vào thời phong kiến, khi có tù nhân bị xử án lưu đày, người chịu trách nhiệm áp giải họ sẽ là các nha dịch, binh lính cấp thấp.

Nhiệm vụ của những người này vừa là giám sát tù nhân đồng thời cũng quản lý cuộc sống sinh hoạt của họ trên suốt đường đi.

Tuy nhiên trên thực tế, quá trình áp giải hầu hết đều vô cùng gian khổ. Bởi vậy nên đa số các nha dịch thời bấy giờ đều không mấy mặn mà với nhiệm vụ này.

Thế nhưng trong trường hợp tù nhân cần áp giải là nữ, tầng lớp này lại sẵn sàng tranh nhau để được đi thi hành nhiệm vụ gian khổ đó, mà nguyên nhân lại xuất phát từ một vài lý do mờ ám dưới đây.

Lý do thứ nhất: Thu tiền hối lộ

Binh linh thoi co dai thuong tranh nhau di ap giai cac nu pham nhan

Ảnh minh họa: Nguồn Internet.

Vào thời cổ đại, án lưu đày thường là hình thức xử phạt dành cho những người có địa vị nhất định trong xã hội.

Đa số những người chịu án này là các đối tượng thuộc tầng lớp trung lưu, mắc phải một tội danh nào đó cần xử phạt nhưng chưa tới mức phải phán án tử hình.

Trên thực tế, việc các nam phạm nhân bị lưu đày vốn không phải là chuyện hiếm lạ. Đối với những người này, tầng lớp sai nha, binh lính vốn chẳng hề mặn mà.

Bởi lẽ, các nam phạm nhân vốn có thể trạng khỏe mạnh. Lưu đày chẳng qua sẽ khiến họ tốn thêm chút sức đi đường mà thôi.

Tuy nhiên trường hợp của các nữ phạm nhân lại không giống như vậy. Trên thực tế, vẫn có một vài tiểu thư, phu nhân nhà giàu bị xử án lưu đày.

Vì họ vốn sở hữu thể trạng yếu đuối nên thân nhân thường sẽ bỏ tiền hối lộ để đảm bảo sự bình an cho những người này. Và số tiền đút lót đó đa số đều vào túi đám nha dịch, binh lính chịu trách nhiệm áp giải.

Bởi vì các nữ phạm nhân trên đường đi không dễ chịu khổ, sẽ cần tới sự bảo vệ, chiếu cố của những người đi cùng, cho nên việc áp giải họ ít nhiều vẫn có thể trở thành một mối kiếm lời cho tầng lớp sai nha thời bấy giờ.

Lý do thứ hai: Nữ phạm nhân dễ dàng trông coi

Binh linh thoi co dai thuong tranh nhau di ap giai cac nu pham nhan-Hinh-2

Ảnh minh họa: Nguồn Internet.

Thể chất của đàn ông và phụ nữ từ xưa tới nay vẫn luôn có sự khác biệt rất lớn. Cũng bởi vậy nên vào thời cổ đại, từng có không ít nam phạm nhân bỏ trốn thành công trên đường áp giải, nhưng đối với các tù nhân nữ thì rất ít khi xảy ra chuyện này.

Cho nên khi áp giải các nam tù binh, sai nha thường sẽ tương đối vất vả vì ngày đêm phải đề phòng họ chạy trốn.

Trong khi đó, các nữ phạm nhân thể trạng yếu đuối, đi đường cả ngày dài đã tiêu tốn gần hết sức lực, về cơ bản gần như không có khả năng trốn thoát.

Hơn nữa đa số họ đều mang trong mình tâm lý sợ sệt. Vì thế họ càng không dám bỏ trốn nếu cân nhắc tới hậu quả trong trường hợp bị bắt lại.

Đó là chưa kể tới việc áp giải các nữ phạm nhân là công việc tương đối nhàn hạ. Bởi nếu xuất thân từ các gia đình giàu có, họ thậm chí còn được thân nhân bí mật sắp xếp xe cộ hộ tống.

Các nữ tù nhân đã được hưởng đãi ngộ như vậy, người áp giải họ đương nhiên sẽ chẳng bị thiệt thòi. Cho nên đây cũng là công việc béo bở mà đám sai nha, nha dịch thường tranh nhau giành lấy.

Lý do thứ ba: Ý đồ mờ ám

Binh linh thoi co dai thuong tranh nhau di ap giai cac nu pham nhan-Hinh-3

Ảnh minh họa: Nguồn Internet.

Ngoại trừ những nguyên nhân kể trên, còn có một lý do khác mà nhiều người hẳn đã nghĩ tới.

Đó là một số sai nha có dã tâm bất lương sẽ tìm cách để thừa cơ làm khó, thậm chí "đụng tay đụng chân" với các nữ phạm nhân trên đường áp giải.

Vì giờ đây đang mang trên mình thân phận tù nhân, những người này cũng khó có cơ hội phản kháng hay tố cáo. Điều đó càng tạo cơ hội cho bè lũ nha dịch thừa cơ làm càn.

Từ những nguyên nhân trên đây, có thể thấy việc tầng lớp nha dịch, binh lính thời bấy giờ thường tranh nhau cơ hội áp giải các nữ tù nhân đi lưu đày thực chất đều bắt nguồn từ những tâm tư đen tối và các mục đích tư lợi của họ mà thôi. 

Giải mã bí ẩn thế giới bùa ngải thời cổ đại

Nhiều thầy pháp sư vì lợi ích cá nhân thường luyện những loại bùa ngải hại người: ngải yêu, mê tâm ngải... Những người bị trúng ngải tâm thần mê man, mất ăn, mất ngủ.

Trong thế giới của những thầy pháp sư thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đã cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí.
Giai ma bi an the gioi bua ngai thoi co dai
Ảnh minh họa. 
Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí.
Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời mình để luyện "công lực". Họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đã luyện thành cao thủ, họ sẽ tìm và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp.
Theo những câu chuyện lưu truyền, loại ngải quý hiếm nhất là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ý đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, được gọi là "Phù phấn ngải" vì lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách, nó sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quý.
Những cao tăng muốn tìm được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi tìm được, phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào chậu đất nung, cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển).
Sau khi nuôi trồng, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong, trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp còn nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, cách luyện này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ, thậm chí có thể tìm được người bị mất tích.
Một loại ngải còn quý hiếm hơn và đã bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu thì các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện thì sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây, phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện thì sẽ có thể giúp con người cải tử hoàn sinh.
Những pháp sư chạy theo vụ lợi cá nhân thường luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa tình". Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, không biết gì về đạo lý, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái tình. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh.
Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây mê tâm lá màu xanh sẫm to bản, hình cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân thì mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám.
Giai ma bi an the gioi bua ngai thoi co dai-Hinh-2
Một cây thuộc chủng họ huyết ngải huyền thoại. 
Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Nó mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn tìm được Huyết nhân ngải, phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nhìn thấy và nhổ được vì ban ngày lá cây màu xanh như bình thường. Hoa của loài ngải này nhỏ li ti và có màu đỏ như những giọt máu.

Phải chăng loài người thời cổ đại đều bị mù màu xanh lam?

Màu xanh lam từng bị "mất tích" trong thế giới tự nhiên và tất cả các văn bản thời cổ đại.

Đâu là màu sắc bí ẩn nhất trong lịch sử nhân loại? Không phải màu đen – đó là màu xanh lam. Trong hai cuốn sử thi hùng tráng nhất của thời Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey, Homer không một lần nào nhắc tới màu xanh lam. Khi mô tả màu sắc của bầu trời, ông ấy nói nó giống với màu đồng pha lẫn màu của sắt.

Màu xanh lam cũng không hề xuất hiện trong các câu chuyện cổ ở Trung Quốc, Sagas Iceland hoặc các phiên bản Kinh Thánh cổ được viết bằng tiếng Do Thái. Nhiều người tin rằng việc chúng ta biết đến màu xanh lam ngày nay chỉ vì chúng ta ai cũng được dạy về nó từ bé.

Thời cổ đại, con người đã chứng minh thân thế như nào?

Trước khi có CMND hay CCCD, con người vẫn có những cách riêng để chứng minh thân thế.

Thoi co dai, con nguoi da chung minh than the nhu nao?

Đọc nhiều nhất

Tin mới