Biệt tài phong thuỷ và tiên tri của thiền sư Việt

Nhiều câu chuyện cho thấy, các thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ đã tiên liệu được sự xuất hiện của nhà Lý trong lịch sử.

Gắn liền với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử dân tộc, đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang màu sắc tâm linh, kỳ bí khó lý giải. Điều đặc biệt, những câu chuyện kỳ lạ trên lại gắn liền tên tuổi của những vị thiền sư nổi danh thuộc thiền phái Diệt Hỷ.
Khả năng tiên tri linh nghiệm
Nhiều câu chuyện cho thấy, các thiền sư thuộc thiền phái này đã tiên liệu được sự xuất hiện của nhà Lý trong lịch sử và có sự chuẩn bị trước cho việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua từ hàng trăm năm trước.
Tượng Thiền sư Vạn Hạnh. (Nguồn ảnh: Internet).
 Tượng Thiền sư Vạn Hạnh. (Nguồn ảnh: Internet).
Người được cho là có dự cảm sớm nhất đối với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử là thiền sư Định Không - đệ tử đời thứ 7 của thiền phái Diệt Hỷ. Được biết, thiền sư Định Không là người họ Nguyễn, ở làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Ông nổi tiếng là người am hiểu thế, số. Tuy cái duyên cửa thiền đến với ông rất muộn, khi ông đã về già nhưng tài năng và đức hạnh của vị thiền sư này đến nay vẫn còn lưu truyền. Trong đó, ông được ca ngợi là người có khả năng tiên tri và để lại nhiều lời sấm truyền mà sau này được nhiều thế hệ ghi nhận là ứng nghiệm.
Trong sách Thiền Uyển tập Anh cho rằng, ngay từ thời điểm năm 785 đến 804, tức hơn 200 năm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Định Không đã dự cảm được việc nhà Lý xuất hiện trong lịch sử. Câu chuyện mang màu sắc huyền bí này lại gắn liền với ngôi chùa Quỳnh Lâm (tức chùa Đài hay còn gọi là chùa Lục Tổ, ở Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng đất Kinh Bắc.
Sự xuất hiện của triều Lý gắn liền với giai thoại về tài năng của các bậc thiền sư thiền phái Diệt Hỷ.
 Sự xuất hiện của triều Lý gắn liền với giai thoại về tài năng của các bậc thiền sư thiền phái Diệt Hỷ.
Tương truyền, khi tiến hành xây chùa Quỳnh Lâm, lúc mới đào đất đắp nền đã phát hiện 1 cái ly hương và 10 cái khánh. Sau đó, sư sai người đem xuống sông rửa.
Một cái khánh bị rơi xuống tận đáy sông. Thiền sư Định Không cho rằng đây là điềm báo tốt, liền nói với mọi người: "Chữ Thập, chữ Khẩu hợp thành chữ Cổ. Chữ Thuỷ, chữ Khứ hợp thành chữ Pháp. Chữ Thổ chỉ làng ta ở nên sư quyết định đặt tên làng mình từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp". Sau đó, sư tụng rằng: "Hiện ra pháp khí/ 12 chuông đồng/ Họ lý làm vua/ Ba phẩm thành công".
Bản thân vị thiền sư này không chỉ có dự cảm về sự xuất hiện của triều Lý, mà còn đoán định trước việc vùng đất Cổ Pháp có thể bị yểm bởi một người ngoại quốc. Do đó, thiền sư Định Không đã căn dặn đệ tử của mình trước khi viên tịch.
Chuyện xưa kể rằng, trước khi sắp tịch, sư gọi đệ tử Thông Thiện, nói: "Ta muốn mở rộng làng xóm nhưng e nửa chừng gặp tai hoạ, chắc có kẻ muốn phá hoại nước ta. Sau khi ta mất, con cố giữ đất Cổ Pháp này, rồi gặp người họ Đinh thì truyền".
Lời nhắn nhủ của thiền sư Định Không với đệ tử Thông Thiện sau này được cho là đúng sự thực. Người ngoại quốc mà vị thiền sư này nhắc đến chính là Cao Biền - Tiết độ sứ ở Tĩnh Hải Quân (tên gọi Việt Nam thời gian 866 - 968) của một nhân vật được người đời sau nhắc đến nhiều lần trong những câu chuyện liên quan đến việc phá long mạch nước ta vào thời điểm ông làm Tiết độ sứ ở nước ta.
Dùng cây gạo để hàn long mạch
Không chỉ thiền sư Định Không mà nhiều thiền sư các đời kế tiếp của thiền phái này đến nay vẫn được hậu thế lưu truyền là có biệt tài về phong thuỷ và có khả năng dự đoán được tương lai. Nhiều huyền sử đến nay vẫn còn nhắc đến tên tuổi của nhiều vị thiền sư như Trưởng lão La Quý, thiền sư Vạn Hạnh. Họ đều là những bậc thầy về phong thuỷ và những người có khả năng tiên tri.
Được biết, sau khi thiền sư Định Không viên tịch, đệ tử là thiền sư Thông Thiện đã nghe theo lời dặn của thầy, suốt ngày tu luyện để giữ Cổ Pháp. Lời truyền dạy của thiền sư Định Không đã ứng nghiệm khi thiền sư Thông Thiện đã gặp được một người học trò họ Đinh và truyền pháp lại cho người này, người đời sau gọi người học trò này là Trưởng lão La Quý.
Theo sử chép, Trưởng lão La Quý người An Chân (Thái Bình ngày nay), ông tu tại chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ, Trưởng lão La thường chu du khắp các phương, hỏi thăm các bậc thiền sư. Trải qua nhiều năm không gặp đạo duyên, Trưởng lão La sắp thối chí.
May mắn sau này, Trưởng lão gặp được pháp hội của Thông Thiện, nghe một lời, lòng thiền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy. Được thiền sư Thông Thiện truyền pháp, Trưởng lão ra sức tu luyện đến khi đắc pháp sư tuỳ phương diễn hoá, tài phép vô biên. Tương truyền, mỗi khi ngài nói ra lời nào, tất là phù sấm.
Cuộc đời của vị thiền sư này gắn liền với giai thoại hàn long mạch, phá yểm của Cao Biền. Theo sách Thiền Uyển tập Anh, khi Cao Biền sang nước ta, xây thành bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp có khí đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn đến 19 chỗ để trấn yểm. Việc Cao Biền tìm cách trấn yểm, để nước Nam mãi là vùng đất thuộc phương Bắc là một hành động rất nham hiểm nhưng cũng rất vi diệu mà người thường không dễ nhận ra.
Chính Trưởng lão La Quý, khi đã "đắc pháp", ông đã phát hiện được điều này và chính ông là người cho tiến hành lấp lại các điểm Cao Biền sai người đào, phá long mạch trước đây. Để long mạch được trở về như xưa, Trưởng lão La Quý đã trồng một cây bông gạo ở chùa Châu Minh để hàn long mạch nhằm trấn chỗ đứt. Cây gạo mà Trưởng lão La Quý trồng sau này gắn liền với giai thoại, sét đánh thành bài sấm truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Chuyện xưa kể rằng, khi trồng cây gạo này, Trưởng lão La Quý đã làm bài thơ, "Đại sơn đầu rồng ngửng/ Đuôi cù chẩn Châu Minh/ Thập bát tử định thành/ Bông gạo hiện long hình/ Thỏ gà trong tháng chuột/ Nhất định thấy trời lên". Người đời sau cho rằng, bài thơ này là lời sâm truyền báo hiệu ngày, tháng, sự ra đời của vua Lý Công Uẩn. Bởi nội dung bài thơ có ý dự báo cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Sau này, nhà Lý sau này ra đời vào tháng 10 năm Đinh Dậu.
Biệt tài "dung ba cõi"
Cũng liên quan đến sự ra đời của vương triều Lý trong lịch sử, một vị thiền sư nổi danh khác của thiền phái Diệt Hỷ được nhắc đến đó chính là thiền sư Vạn Hạnh, đời thứ 12 của thiền phái Diệt Hỷ.
Đến nay, tên tuổi của vị thiền sư này được người đời sau ca ngợi: "Sư nói lời nào, thiên hạ cho là phù sấm". Vua Lý Nhân Tông đã làm kệ (thể thơ phổ biến thời Lý Trần), ca ngợi tài năng của vị thiền sư này: "Vạn Hạnh dung ba cõi/ Thật hiệp lời sấm xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy trấn kinh đô". Bài thơ ý nói Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, hiện tại và thời vị lai.
Được biết, sư Vạn Hạnh vốn là thầy của Lý Công Uẩn. Người có công rất lớn trong việc giáo dục và giúp đỡ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Tương truyền, ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi (sự kiện diễn ra tại Ninh Bình), sư Vạn Hạnh ở mãi tận chùa Quỳnh Lâm, đã biết trước mọi việc, bảo với người bác và chú của vua rằng: "Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ (Lý Công Uẩn) hiện đang ở nhà. Trong trưa nay, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi nhà sư cho yết bảng ở đường cái nói rằng: "Tật lên chìm bể Bắc/ Hạt Lý mọc trời Nam/ Bốn phương gươm giáo dẹp/ Tám cõi mừng bình an", ý thơ nói nhà Lý thay nhà Lê.
Xung quanh những câu chuyện về biệt tài võ học, phong thuỷ và khả năng tiên tri của những thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Trưởng môn phái Thăng Long võ đạo cho rằng, những câu chuyện huyền sử trên có cơ sở.
Võ sư Nguyễn Văn Thắng, trưởng môn phái Thăng Long Võ đạo giải thích về mối quan hệ giữa thiền và võ học, phong thuỷ dự báo.
Võ sư Nguyễn Văn Thắng, trưởng môn phái Thăng Long Võ đạo giải thích về mối quan hệ giữa thiền và võ học, phong thuỷ dự báo. 
Vị võ sư này cho rằng, trong các câu chuyện về các vị thiền sư, có người được nhắc tới như một bậc thầy về võ học, người được nhắc đến với vai trò là người có tầm hiểu biết phong thuỷ và khả năng tiên tri đoán định. Nhưng thực tế, khi đạt đến đỉnh cao của thiền học, tất yếu đạt đến đỉnh cao của võ và có hiểu biết sâu sắc về phong thuỷ.
Giải thích về mối quan hệ giữa thiền học, võ học, phong thuỷ và dự báo, võ sư Nguyễn Văn Thắng cho rằng: "Ngày trước các thầy võ thường rất giỏi về văn, y, lý, số. Điều này không có gì là lạ. Bởi, năng lượng đi cùng với khí công, khí công hỗ trợ cho lực võ. Ý sinh khí, khí sinh lực, lực tạo công năng. Võ giỏi đều phải giỏi khí công, đỉnh cao của khí công tức là tĩnh là thiền định. Võ thuật là thiền định (thiền định là tâm linh), tâm linh là phong thuỷ là để hoà hợp với đất trời. Mà phong thuỷ liên quan đến dự báo (tiên tri), bởi trong hình có khí, trong khí chứa đựng tâm linh. Hình thể như thế nào thì khí như vậy".

Chuyện kỳ diệu về “thần nhãn” của Lạt Ma Tây Tạng

(Kiến Thức) - Một số Lạt Ma Tây Tạng có trình độ kiến thức, triết lý uyên thâm, thậm chí được cho là có khả năng thấu hiểu tâm can người khác.

Khả năng đặc biệt huyền bí này của các Lạt Ma Tây Tạng được gọi là thần nhãn. Đối với những Lạt Ma tu hành lâu năm, họ được cho là có con mắt thứ ba hay chính là thần nhãn có thể hiểu ý nghĩ, tâm tư của đối phương mà người đó không cần nói hay có bất cứ hành động nào.
Khả năng đặc biệt huyền bí này của các Lạt Ma Tây Tạng được gọi là thần nhãn. Đối với những Lạt Ma tu hành lâu năm, họ được cho là có con mắt thứ ba hay chính là thần nhãn có thể hiểu ý nghĩ, tâm tư của đối phương mà người đó không cần nói hay có bất cứ hành động nào.

Chuyện đời kỳ lạ của đại thiền sư nước Việt

Là vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thiền sư Huyền Quang được hậu thế tôn xưng là một Đại thiền sư Việt Nam. 

Ông có vị trí ngang hàng với sáu vị tổ của Thiền tông Trung Quốc và 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ.

Bí ẩn thâm cung: Vương phi có thai với thái giám

(Kiến Thức) - Thạc phi là ái phi của Thuận Trị, do không chịu nổi cô đơn lạnh lẽo chốn thâm khuê nên đã thông dâm với thái giám và có mang.

Ái Tân Giác La - Phúc Lâm, sinh giờ Tuất, ngày 30/01/1638 tại cung Vĩnh Phúc, tức năm thứ 3 Sùng Đức. Tháng 8, năm thứ 8 Sùng Đức (tức năm 1644) Hoàng đế Thái Tông đột ngột băng hà, Phúc Lâm được thúc phụ là Nhiếp Chính Vương Đa Nhĩ Cổn phụ tá đăng cơ, đổi thành Thuận Trị, đồng thời tháng 9 nguyên niên Thuận Trị (tức năm 1644) rời đô từ Thẩm Dương đến Bắc Kinh, và trở thành hoàng đế đầu tiên của triều Thanh. Hoàng đế Thuận Trị tại vị từ năm 1643 đến 1661, hưởng thọ 24 tuổi. Tuy tuổi thọ không cao song những chuyện kì quặc liên quan đến ông ta rất nhiều. Trong đó có cả câu chuyện quý phi của ông thông dâm với thái giám và có mang.
Ái Tân Giác La - Phúc Lâm, sinh giờ Tuất, ngày 30/01/1638 tại cung Vĩnh Phúc, tức năm thứ 3 Sùng Đức. Tháng 8, năm thứ 8 Sùng Đức (tức năm 1644) Hoàng đế Thái Tông đột ngột băng hà, Phúc Lâm được thúc phụ là Nhiếp Chính Vương Đa Nhĩ Cổn phụ tá đăng cơ, đổi thành Thuận Trị, đồng thời tháng 9 nguyên niên Thuận Trị (tức năm 1644) rời đô từ Thẩm Dương đến Bắc Kinh, và trở thành hoàng đế đầu tiên của triều Thanh. Hoàng đế Thuận Trị tại vị từ năm 1643 đến 1661, hưởng thọ 24 tuổi. Tuy tuổi thọ không cao song những chuyện kì quặc liên quan đến ông ta rất nhiều. Trong đó có cả câu chuyện quý phi của ông thông dâm với thái giám và có mang.
Thuận Trị có một ái phi tên Thạc quý phi, tuổi xuân mơn mởn, dung mạo tuyệt trần. Nhưng Thuận Trị không biết thương hoa tiếc ngọc, có khi vài tháng không sủng hạnh một lần.
Thuận Trị có một ái phi tên Thạc quý phi, tuổi xuân mơn mởn, dung mạo tuyệt trần. Nhưng Thuận Trị không biết thương hoa tiếc ngọc, có khi vài tháng không sủng hạnh một lần. 
Thái giám vốn là Yêm nhân (hoạn quan) bị tịnh thân không có bộ phận sinh dục nên khó mà có thể có sự kích thích giới tính. Nhưng trong cung Nhân Hòa có một thái giám tên Vương Nhân không những không bị tịnh thân mà vẫn là một đàn ông đầy đủ khả năng sinh lý, vẫn có thể khiến phụ nữ mang bầu.
Thái giám vốn là Yêm nhân (hoạn quan) bị tịnh thân không có bộ phận sinh dục nên khó mà có thể có sự kích thích giới tính. Nhưng trong cung Nhân Hòa có một thái giám tên Vương Nhân không những không bị tịnh thân mà vẫn là một đàn ông đầy đủ khả năng sinh lý, vẫn có thể khiến phụ nữ mang bầu. 
Một hôm, Thạc quý phi mày chau ủ dột, tâm trạng buồn chán bèn kêu cung nữ đấm lưng, bóp chân. Khi cung nữ có việc phải ra ngoài nàng bèn gọi thái giám Vương Nhân đến thay. Vương nhân trắng trẻo thư sinh, về tướng mạo có thể nói là một anh tài.
Một hôm, Thạc quý phi mày chau ủ dột, tâm trạng buồn chán bèn kêu cung nữ đấm lưng, bóp chân. Khi cung nữ có việc phải ra ngoài nàng bèn gọi thái giám Vương Nhân đến thay. Vương nhân trắng trẻo thư sinh, về tướng mạo có thể nói là một anh tài. 
Hai người lâu dần nảy sinh tình cảm, ba tháng sau, Thạc quý phi có mang. Nàng cho Vương Nhân xuất cung âm thầm mua thuốc phá thai. Sau khi uống thuốc, đau đớn lăn lộn, bọn cung nữ sợ quá vội đi bẩm tấu với Hoàng thượng. Thuận Trị đích thân giá đáo cung Hòa An lệnh cho Thái y bắt mạch khám xét cẩn thận. Thái ý lắp ba lắp bắp nhưng cũng có câu rõ nhất: "Quý phi không có bệnh gì, ngọc thể suy nhược do sảy thai”.
 Hai người lâu dần nảy sinh tình cảm, ba tháng sau, Thạc quý phi có mang. Nàng cho Vương Nhân xuất cung âm thầm mua thuốc phá thai. Sau khi uống thuốc, đau đớn lăn lộn, bọn cung nữ sợ quá vội đi bẩm tấu với Hoàng thượng. Thuận Trị đích thân giá đáo cung Hòa An lệnh cho Thái y bắt mạch khám xét cẩn thận. Thái ý lắp ba lắp bắp nhưng cũng có câu rõ nhất: "Quý phi không có bệnh gì, ngọc thể suy nhược do sảy thai”.
Thật nực cười đã mấy tháng, thậm chí cả năm không được sủng hạnh sao lại có mang mà sảy thai. Thuận Trị nổi trận lôi đình, hai ngày sau nàng Thạc quý phi treo cổ chết, Thái giám Vương Nhân cũng chết bất đắc kì tử. Một câu hỏi đặt ra “Vì sao Thạc quý phi không yên phận làm một quý phi đường đường chính chính mà lại đi tư thông dâm tình với một thái giám thân phận thấp hèn?”.
 Thật nực cười đã mấy tháng, thậm chí cả năm không được sủng hạnh sao lại có mang mà sảy thai. Thuận Trị nổi trận lôi đình, hai ngày sau nàng Thạc quý phi treo cổ chết, Thái giám Vương Nhân cũng chết bất đắc kì tử. Một câu hỏi đặt ra “Vì sao Thạc quý phi không yên phận làm một quý phi đường đường chính chính mà lại đi tư thông dâm tình với một thái giám thân phận thấp hèn?”.
Tháng 5/1654, năm thứ 11 Thuận Trị, Hoàng thượng chìm đắm trong men tình của nàng Đổng Phi. Đổng Phi còn gọi là Đổng Ngạc phi, là nữ nội đại thần ngạc thạc. Thuận Trị tiếp xúc nhiều với Đổng thị lâu dần nảy sinh tình cảm. Tháng 8/1656 tức năm thứ 13 Thuận Trị, ông ta lập nàng làm Hiền phi, đầu tháng 12 sắc phong làm Hoàng quý phi và ban ân chiếu đại xá thiên hạ.
Tháng 5/1654, năm thứ 11 Thuận Trị, Hoàng thượng chìm đắm trong men tình của nàng Đổng Phi. Đổng Phi còn gọi là Đổng Ngạc phi, là nữ nội đại thần ngạc thạc. Thuận Trị tiếp xúc nhiều với Đổng thị lâu dần nảy sinh tình cảm. Tháng 8/1656 tức năm thứ 13 Thuận Trị, ông ta lập nàng làm Hiền phi, đầu tháng 12 sắc phong làm Hoàng quý phi và ban ân chiếu đại xá thiên hạ.
Địa vị của Hoàng Quý phi trong hậu cung chỉ xếp sau Hoàng hậu, sắc phong Hoàng quý phi cũng đại xá thiên hạ là việc xưa nay hiếm. Năm thứ 8 và năm thứ 11 Thuận Trị có đến 2 lần sắc phong trong Hoàng cung mà đại xá thiên hạ, thì không khó nhận thấy Hoàng quý phi Đổng Ngạc đã chiếm vị trị độc tôn trong trái tim Hoàng đế Thuận Trị.
Địa vị của Hoàng Quý phi trong hậu cung chỉ xếp sau Hoàng hậu, sắc phong Hoàng quý phi cũng đại xá thiên hạ là việc xưa nay hiếm. Năm thứ 8 và năm thứ 11 Thuận Trị có đến 2 lần sắc phong trong Hoàng cung mà đại xá thiên hạ, thì không khó nhận thấy Hoàng quý phi Đổng Ngạc đã chiếm vị trị độc tôn trong trái tim Hoàng đế Thuận Trị. 
Tại sao Đổng Ngạc thị lại có sức hấp dẫn mãnh liệt với Hoàng đế Thuận Trị như vậy? Trong con mắt của ông hoàng này, nàng là người giản dị, không màng kim ngọc, thông “tứ thư” và “kinh dịch”, lãnh ngộ được giáo lý thiền học, tinh thông thư pháp nên rất tâm đầu ý hợp với Hoàng thượng, hai người có thể nói với nhau chả bao giờ hết chuyện.
 Tại sao Đổng Ngạc thị lại có sức hấp dẫn mãnh liệt với Hoàng đế Thuận Trị như vậy? Trong con mắt của ông hoàng này, nàng là người giản dị, không màng kim ngọc, thông “tứ thư” và “kinh dịch”, lãnh ngộ được giáo lý thiền học, tinh thông thư pháp nên rất tâm đầu ý hợp với Hoàng thượng, hai người có thể nói với nhau chả bao giờ hết chuyện. 
Nhưng chính tình yêu của Thuận Trị đã trở thành gánh nặng cho nàng. Nàng cảm thấy vô cùng mêt mỏi với cuộc sống chốn thâm cung. Lao lực quá độ đã khiến nàng từ giã cõi đời vào 23/9/1966 tức tháng 8 năm thứ 17 Thuận Trị. Đổng phi mất đi, đó là cú sốc vô cùng to lớn với Thuận Trị. Cơ thể ông ta ốm yếu suy kiệt, không thể khống chế nổi tình cảm của mình, lúc nào cũng chỉ muốn tìm đến cái chết, chẳng màng chuyện gì. Ngày đêm luôn có người canh giữ không để ông ta tự sát.
Nhưng chính tình yêu của Thuận Trị đã trở thành gánh nặng cho nàng. Nàng cảm thấy vô cùng mêt mỏi với cuộc sống chốn thâm cung. Lao lực quá độ đã khiến nàng từ giã cõi đời vào 23/9/1966 tức tháng 8 năm thứ 17 Thuận Trị. Đổng phi mất đi, đó là cú sốc vô cùng to lớn với Thuận Trị. Cơ thể ông ta ốm yếu suy kiệt, không thể khống chế nổi tình cảm của mình, lúc nào cũng chỉ muốn tìm đến cái chết, chẳng màng chuyện gì. Ngày đêm luôn có người canh giữ không để ông ta tự sát.
Để truy phong cho Đổng Ngạc thị là Hoàng hậu, Thuận Trị đã dọa chết để ép Hiếu Trang Hoàng thái hậu. Theo truyền thống chỉ có phi tần có con trai kế tục hoàng vị sau này mới được phong làm Hoàng hậu. Nhưng tránh không để Thuận Trị mất trí làm chuyện dại dột, Hoàng thái hậu đành phải đồng ý truy phong cho Đổng Ngạc thị làm Hoàng hậu.
Để truy phong cho Đổng Ngạc thị là Hoàng hậu, Thuận Trị đã dọa chết để ép Hiếu Trang Hoàng thái hậu. Theo truyền thống chỉ có phi tần có con trai kế tục hoàng vị sau này mới được phong làm Hoàng hậu. Nhưng tránh không để Thuận Trị mất trí làm chuyện dại dột, Hoàng thái hậu đành phải đồng ý truy phong cho Đổng Ngạc thị làm Hoàng hậu.
Tang lễ của Đổng Ngạc thị cũng được tổ chức khác thường. Thuận Trị lệnh tuẫn táng 30 cung nữ và thái giám. Linh cữu của nàng do quan bát kì nhị, tam phẩm thay nhau khênh đến điện Thọ Xuân Cảnh Sơn, trong điện lập linh đường do hòa thượng làm đạo tràng. Phúc Lâm còn hạ lệnh “toàn thiên hạ phải mặc phục tang, quan sử một tháng, bách tính lê dân ba tháng”. Theo quy định của triều Thanh, chỉ có Hoàng Thượng và Thái hậu băng hà thì văn võ bá quan phải dùng bút mực xanh để phê đáp tấu sự trong vòng 27 ngày, Hoàng Hậu chết không có quy định này, vậy mà Đổng Ngạc thị được Phúc Lâm phá lệ cho để tang trong hơn 4 tháng thì quả là hành động “nổi loạn”.
 Tang lễ của Đổng Ngạc thị cũng được tổ chức khác thường. Thuận Trị lệnh tuẫn táng 30 cung nữ và thái giám. Linh cữu của nàng do quan bát kì nhị, tam phẩm thay nhau khênh đến điện Thọ Xuân Cảnh Sơn, trong điện lập linh đường do hòa thượng làm đạo tràng. Phúc Lâm còn hạ lệnh “toàn thiên hạ phải mặc phục tang, quan sử một tháng, bách tính lê dân ba tháng”. Theo quy định của triều Thanh, chỉ có Hoàng Thượng và Thái hậu băng hà thì văn võ bá quan phải dùng bút mực xanh để phê đáp tấu sự trong vòng 27 ngày, Hoàng Hậu chết không có quy định này, vậy mà Đổng Ngạc thị được Phúc Lâm phá lệ cho để tang trong hơn 4 tháng thì quả là  hành động “nổi loạn”. 

Sau tang lễ của Đổng Hoàng hậu, Thuận Trị lại muốn xuất gia mặc cho văn võ bá quan can gián. Khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10, Phúc Lâm quyết định xuất gia. Khi biết Hoàng thượng xuống tóc, Ngọc Lâm Quốc sư đã khuyên giải. Thuận Trị nghe xong thì tỉnh ngộ không xuất gia nữa. Nhưng từ đó ông ta không còn màng đến chuyện nhân gian, tự nhiên không tha thiết gì đến phi tử, mấy tháng có khi cả năm không lâm hạnh nàng nào là chuyện hết sức bình thường. Vậy nên, dẫu tuổi xuân mơn mởn, nhan sắc như hoa như ngọc, Thạc quý phi vẫn bị hoàng đế ghẻ lạnh, tới nỗi không chịu nổi sự cô đơn lãnh lẽo chốn thâm khuê nên mà liều lĩnh “vượt rào”, tư tình với thái giám. Âu cũng là chuyện khó tránh khỏi.
Sau tang lễ của Đổng Hoàng hậu, Thuận Trị lại muốn xuất gia mặc cho văn võ bá quan can gián. Khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10, Phúc Lâm quyết định xuất gia. Khi biết Hoàng thượng xuống tóc, Ngọc Lâm Quốc sư đã khuyên giải. Thuận Trị nghe xong thì tỉnh ngộ không xuất gia nữa. Nhưng từ đó ông ta không còn màng đến chuyện nhân gian, tự nhiên không tha thiết gì đến phi tử, mấy tháng có khi cả năm không lâm hạnh nàng nào là chuyện hết sức bình thường. Vậy nên, dẫu tuổi xuân mơn mởn, nhan sắc như hoa như ngọc, Thạc quý phi vẫn bị hoàng đế ghẻ lạnh, tới nỗi không chịu nổi sự cô đơn lãnh lẽo chốn thâm khuê nên mà liều lĩnh “vượt rào”, tư tình với thái giám. Âu cũng là chuyện khó tránh khỏi. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới