Bí mật căn hầm vũ khí của chiến sĩ biệt động

Nhờ có căn hầm chứa vũ khí ở số nhà 287/70 Nguyễn Đình Chiểu quân ta đã có điều kiện tốt cho trận đánh táo bạo vào dinh Độc Lập.

Bí mật căn hầm vũ khí của chiến sĩ biệt động
Đêm giao thừa tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, tỉnh lị, thị xã, căn cứ quân sự, cơ quan chính quyền của Mỹ - ngụy. Một trong những trận đánh nổi tiếng và táo bạo trong cuộc Tổng tiến công này là trận đánh dinh Độc Lập đêm mùng 2 tết tại Sài Gòn.
Vào lúc 1h30’ sáng mùng 2 tết, từ căn nhà số 287/70 đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu), các chiến sĩ Đội 5 biệt động gồm 15 người dưới sự chỉ huy của đồng chí Trương Hoàng Thanh (Ba Thanh), xuất phát trên 3 xe hơi nhỏ và 1 Honda (có một xe hơi chứa chất nổ để phá hủy mục tiêu), tiến đánh dinh Độc Lập - sào huyệt cao nhất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Căn cứ của Mỹ - ngụy ở Chợ Lớn bị quân giải phóng tiêu diệt.
Căn cứ của Mỹ - ngụy ở Chợ Lớn bị quân giải phóng tiêu diệt. 
Đến phía đường Nguyễn Du, gần dinh Độc Lập, lính gác địch phát hiện bắt phải dừng xe. Đoàn xe cứ tiến, chúng lập tức báo động. Các chiến sĩ đi trên xe đầu tiên nổ súng diệt mấy tên này và dùng bộc phá để phá cổng dinh cho xe chứa chất nổ lao vào bên trong.
Tuy nhiên, điều đáng tiếc xảy ra là bộc phá không nổ do trục trặc kỹ thuật. Nhưng tổ đột phá vẫn lọt được vào bên trong. Lúc này, địch bắn xối xả làm 2 chiến sĩ hy sinh, số còn lại phải tạm lui, 2 người bị thương. Địch từ phía bên trong ập tới bịt kín các cổng. Tình thế nguy cấp, các tổ xung kích buộc phải triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du.
Cuộc chiến đấu quyết liệt đang diễn ra thì một toán lính Mỹ từ phía đông lao tới, theo sau có 7 xe Jeep chở đầy lính. Không hề nao núng, các chiến sĩ dùng B.40 bắn cháy cả 2 xe và dùng AK quét sạch đám chạy bộ. Ngay sau đó trên đường Thủ Khoa Huân lại xuất hiện một xe Jeep chở đầy lính lao thẳng tới. Các chiến sĩ bình tĩnh chờ chúng đến thật gần mới ném liên tiếp 5 quả lựu đạn, diệt tất cả địch trên xe.
Như vậy, chỉ sau 30 phút chiến đấu, với sự dũng cảm và mưu trí tuyệt vời, các chiến sĩ Đội 5 biệt động đã diệt 2 xe Jeep và khoảng 20 tên địch. Bị tổn thất, địch tăng cường lực lượng, kéo đến mỗi lúc một đông, có cả xe bọc thép. Cuộc đọ súng diễn ra quyết liệt, thêm một số chiến sĩ ta hy sinh.
Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra quyết liệt. Đến 3h sáng vẫn không thấy tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn và thanh niên, sinh viên kéo đến tiếp sức như kế hoạch. Đến 4h sáng, Đội trưởng Trương Hoàng Thanh hy sinh.
Gần sáng, còn lại 8 chiến sĩ rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân cố thủ trên tầng 3. Đói, mệt giữa vòng vây dày đặc của kẻ thù, 8 chiến sĩ vẫn ngoan cường chiến đấu suốt cả ngày 31/1/1968 (tức ngày mùng 2 tết), trong đó có cả một chiến sĩ nữ là y tá Chín Nghĩa.
Quyết tâm tiêu diệt lực lượng ta, quân ngụy dùng thang cứu hỏa leo lên lầu. Các chiến sĩ vẫn kiên cường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi tháo súng vứt bỏ, dùng gạch, đá, gỗ chặn địch. Đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống) đã anh dũng dùng AK chốt chặn địch ở cầu thang và hy sinh.
Mờ sáng hôm sau, 7 chiến sĩ còn lại trên sân thượng chuyển qua ngôi nhà kế bên và tiếp tục vừa đánh địch vừa di chuyển. Đến nhà số 108 Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng), tất cả rơi vào tay giặc.
Để có được trận đánh vang dội vào dinh Độc Lập này, công tác chuẩn bị, đặc biệt là chuẩn bị vũ khí, đã được tiến hành từ rất sớm với kế hoạch cực kỳ bí mật và chu đáo.
Toàn bộ vũ khí chuẩn bị cho trận đánh này được cất giấu trong một căn hầm của biệt động thành được xây dựng trong căn nhà gác lửng mang số 287/70 đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 10, quận 3, TP HCM.
Đây là căn nhà phố nằm trong một dãy có cùng cấu trúc mặt tiền, cửa sắt kéo, diện tích khoảng 37m2 (dài 14,9m, rộng 2,5m). Chủ nhà là nhà thầu khoán Trần Văn Lai sử dụng vừa để ôtô, vừa chứa vật liệu xây dựng.
Vị trí của căn nhà nằm ở đầu hẻm Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần) nên gia đình Trần Văn Lai ra vào ngõ Võ Văn Tần. Sau khi thống nhất với người chỉ huy đơn vị là ông Nguyễn Văn Trí, Chính trị viên Đơn vị Bảo đảm thuộc Quân khu Sài Gòn - Gia Định, cấp trên của Năm Lai, căn nhà được mua vào đầu năm 1967.
Mua nhà xong, Năm Lai bắt tay vào sửa chữa và sử dụng với danh nghĩa bên ngoài là thầu khoán mang tên Năm USOM (ông Năm Lai thường vào cơ quan USOM của Mỹ để đấu thầu). Với lý do phải sửa chữa hầm cầu nhà vệ sinh và hệ thống thoát nước của căn nhà, thực chất là làm hầm bí mật, anh Năm đã sử dụng những người thợ tin cẩn nhất. Tuy nhiên, kế hoạch vẫn được giữ hết sức bí mật.
Với kế hoạch chu đáo và sáng tạo, một căn hầm bí mật đã được xây dựng. Dưới nền nhà, bên trong buồng có hai hầm cạnh nhau, mỗi đường có đường cống lớn, vừa người chui, thông ra phía sau nhà. Hầm chứa vũ khí có kích thước dài 2m, ngang 1,2m, cao 2,5m, vách và nền hầm được làm bằng xi măng dày để chống thấm.
Riêng miệng hầm, đích thân anh Năm tự tay lắp đặt. Để làm công việc quan trọng này, anh phải đợi đến lúc nửa đêm khi mọi người yên giấc mới bí mật tiến hành. Điểm đặt miệng hầm được chọn gần cầu thang và nắp đậy được cấu tạo bằng 6 miếng gạch dính liền có chốt vặn. Diện tích của nắp hầm là 0,4m x 0,6m. Chỉ cần dùng khoen đính chốt nhấc bổng nắp lên là có khoảng trống vừa một người chui xuống.
Gần nửa năm sau vào giữa năm 1967, căn hầm được hoàn thành và được thông báo đến Đơn vị Bảo đảm (mang bí số J9 T700). Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, chỉ huy đơn vị ra lệnh tiếp tục triển khai công việc như kế hoạch đã định.
Để chở một khối lượng lớn vũ khí với nhiều chủng loại đến đây (gồm súng ngắn, AK, đạn các loại, B.40, bộc phá…), Đơn vị Bảo đảm phải chuẩn bị một bộ ván rỗng ruột (do ông Trần Phú Cương, bí danh Năm Mộc - một chiến sĩ biệt động nội thành đóng). Bộ ván đóng xong được chuyển về xã Phước Hiệp (gần Bàu Mây - Suối Cụt). Tại đây, vũ khí được khéo léo cất giấu trong bộ ván rỗng ruột.
Sau đó, ông Chín Teng, một cơ sở cách mạng của ta dùng xe bò chở đến điểm hẹn ở Củ Chi, nghi trang như một cuộc mua bán. Bộ ván có chứa vũ khí bên trong tiếp tục được đưa lên ôtô mang biển số EC 6045 do Ba Bảo (Nguyễn Văn Bảo) lái chở đến điểm tập kết cất giấu.
Lần khác, vũ khí được giấu trong cà tăng (loại cót dùng làm vách) khoanh tròn. Mỗi lần xe chở vũ khí về nhà, các chiến sĩ đều chọn thời điểm nhá nhem tối, lùi xe vào tận trong nhà xuống hàng để tránh sự chú ý của mọi người xung quanh.
Thực hiện kế hoạch tiến công trong tết Mậu Thân, ngày 29 tết, tại xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh, đơn vị được giao nhiệm vụ là Đội 5 biệt động tiến hành thực tập chuẩn bị cho kế hoạch tiến công dinh Độc Lập.
Máy bay lên thẳng đổ xuống đường phố Sài Gòn tiếp tế cho quân Mỹ bị kẹt.
Máy bay lên thẳng đổ xuống đường phố Sài Gòn tiếp tế cho quân Mỹ bị kẹt. 
Sáng mùng 1 tết, hòa trong dòng người đi chơi xuân, các chiến sĩ Đội 5 biệt động lần lượt dùng nhiều phương tiện khác nhau tập hợp tại căn nhà số 436/58 đường Hoàng Đạo (nay là đường Trần Văn Đang, phường 11, quận 3). Chủ căn nhà là chiến sĩ biệt động Lê Tấn Quốc (bí danh Bảy Rau Muống).
Đến 22h đêm, theo kế hoạch, toàn Đội 5 biệt động chuyển đến nhà Năm Lai trên 2 xe ôtô của Lê Tấn Quốc. Đến nơi, cả hai xe đậu trên đường Trần Quý Cáp, các chiến sĩ vào nhà Năm Lai từ cả cửa trước và cửa sau.
Theo sự chỉ huy của Ba Thanh, một số đội viên xuống hầm mang vũ khí và thuốc nổ lên, kiểm tra rồi đưa lên ôtô đậu trong nhà. Sau cùng, Năm Lai lái xe trong nhà ra đậu kế bên hai xe Đội 5.
Theo bố trí, Mai Văn Năm lái xe đi đầu có nhiều pháo thủ và chất nổ cùng 2 đội viên. Kế tiếp là xe Chỉ huy phó Hai Thanh cùng 6 đội viên trang bị súng AK và lựu đạn. Xe cuối do Lê Tấn Quốc lái cùng Chỉ huy trưởng Ba Thanh, Chín Nghĩa cùng các đội viên còn lại. Chính trị viên Sáu Rồi sử dụng Honda đi trước trinh sát. Và trận đánh vào dinh Độc Lập đã diễn ra như đã viết ở trên.
Sau tết Mậu Thân, với thành tích chiến đấu anh dũng, liệt sĩ Lê Tấn Quốc được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Như vậy, nhờ có căn hầm chứa vũ khí ở số nhà 287/70 Nguyễn Đình Chiểu quân ta đã có điều kiện tốt cho trận đánh táo bạo vào dinh Độc Lập.
Ngày nay, nơi đây đã trở thành địa chỉ đỏ phục vụ tham quan, học tập và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Di tích 287/70 Nguyễn Đình Chiểu đã được Bộ Văn hóa thông tin cấp bằng công nhận di tích theo Quyết định số 1288-VH/QĐ ký ngày 16/11/1988.
Theo bố trí, Mai Văn Năm lái xe đi đầu có nhiều pháo thủ và chất nổ cùng 2 đội viên. Kế tiếp là xe Chỉ huy phó Hai Thanh cùng 6 đội viên trang bị súng AK và lựu đạn. Xe cuối do Lê Tấn Quốc lái cùng Chỉ huy trưởng Ba Thanh, Chín Nghĩa cùng các đội viên còn lại. Chính trị viên Sáu Rồi sử dụng Honda đi trước trinh sát. Và trận đánh vào dinh Độc Lập đã diễn ra như đã viết ở trên.
Sau tết Mậu Thân, với thành tích chiến đấu anh dũng, liệt sĩ Lê Tấn Quốc được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Như vậy, nhờ có căn hầm chứa vũ khí ở số nhà 287/70 Nguyễn Đình Chiểu quân ta đã có điều kiện tốt cho trận đánh táo bạo vào dinh Độc Lập.
Ngày nay, nơi đây đã trở thành địa chỉ đỏ phục vụ tham quan, học tập và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Di tích 287/70 Nguyễn Đình Chiểu đã được Bộ Văn hóa thông tin cấp bằng công nhận di tích theo Quyết định số 1288-VH/QĐ ký ngày 16/11/1988.

“Phút 89” của Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn (1)

“Phút 89” của Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn (1)
35 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều hồ sơ, tài liệu thuộc loại tuyệt mật của chính quyền Sài Gòn đã được giải mã, giúp cho mọi người biết được những giờ phút cuối của một chế độ tay sai, bù nhìn.

Ngô Đình Nhu và kế hoạch xây địa đạo bất thành

Ngô Đình Nhu và kế hoạch xây địa đạo bất thành
Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 của nhóm sỹ quan nhảy dù Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, dinh Độc Lập đã bị hư hỏng nặng cần phải sửa chữa lại. Anh em nhà họ Ngô chuyển từ dinh Độc Lập về dinh Gia Long. Cũng như dinh Độc Lập, dinh Gia Long có hầm trú ẩn khá kiên cố, tuy nhiên, Ngô Đình Nhu nhận thức rằng trong cuộc đảo chính ngày 11/11/1960, nếu quân nổi loạn đánh thốc vào dinh, nã đại bác hạng nặng hoặc dội bom tấn thì hầm cố thủ kiên cố đến đâu cũng bị san phẳng. Chính vì thế, Nhu quyết định xây dựng địa đạo trong dinh Gia Long để thoát ra ngoài, phòng khi nguy biến.

Dinh Gia Long ở thời điểm của cuộc đảo chính 8/11/1963.
 Dinh Gia Long ở thời điểm của cuộc đảo chính 8/11/1963.

Lên kế hoạch xây địa đạo

Theo hồi ký của tướng lưu vong Đỗ Mậu (khi đó là đại tá giám đốc Nha An ninh quân đội của chế độ Diệm), thì ngay tối hôm sau cuộc đảo chánh bất thành, Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông bỏ chạy sang Campuchia, bắt theo cả trung tướng Thái Quang Hoàng làm con tin, Ngô Đình Nhu đã gọi đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng đặc biệt, vào dinh Gia Long. Ông cố vấn nói qua kế hoạch đào và xây dựng đường hầm bí mật dưới lòng đất dinh Gia Long, Lê Quang Tung thưa là có thể thực hiện được, nhưng về phần thiết kế cần phải có một kiến trúc sư thật giỏi. Cuối cùng, Tung tiến cử kiến trúc sư Võ Đức Diên, người từng lo việc trang trí trong dinh Độc Lập và trông nom xây cất lầu Lâm Ngọc ở Đà Lạt cho Trần Lệ Xuân. Nhu đồng ý và dặn Tung phải tuyệt đối giữ bí mật.

Tối hôm sau, đại tá Tung đưa kiến trúc sư Võ Đức Diên vào gặp Nhu. Được Nhu tin tưởng, Diên mừng khấp khởi. Trước đây kiến trúc sư họ Hoàng nhờ xây lăng cho tổng đốc Ngô Đình Khôi mà được ban chức bộ trưởng, Võ Đức Diên cũng hy vọng sẽ kiếm chác một chút bổng lộc qua những con đường bí mật này.

Sau khi xem xét khá tỉ mỉ, Võ Đức Diên tự tin trình bày sẽ hoàn thành bản thiết kế trong thời gian sớm nhất, nhưng xin ý kiến của Ngô Đình Nhu cho biết chi tiết về số địa đạo, số cửa hầm, chiều dài địa đạo. Nhu tham khảo ý kiến Tung rồi chỉ đạo Diên cho đào ở những nơi trọng yếu như: Con đường thứ nhất, từ dinh Gia Long dẫn ra sông Sài Gòn trở lên Tổng hành dinh hải quân rồi đi thẳng đến sở thú. Đường thứ hai từ dinh Gia Long đến nhà thờ Đức Bà. Đường thứ ba từ dinh chạy thẳng đến nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Bên trong, ngay đầu những đường hầm này, sẽ cho gài lựu đạn, mìn, địa lôi.

Ngô Đình Nhu bảo hãy làm đường hầm dẫn vào Chợ Lớn trước đã, rồi chỉ thị Diên làm bản thiết kế rồi đưa cho ông ta xem.

Hai hôm sau, đại tá Tung vào dinh với bản thiết kế hầm trú ẩn và địa đạo bí mật. Nhu ngắm một hồi lâu, gật gù tỏ vẻ hài lòng và ra lệnh nhanh chóng triển khai.

Trong khi kiến trúc sư Diên và đại tá Tung trò chuyện vui vẻ, Tung đã thành công khi đưa cốc cà phê có độc cho Diên uống thì Nhu bước đến tủ sắt ở góc phòng, lấy ra chiếc phong bì lớn đựng hai trăm ngàn đồng đưa cho Diên gọi là đền ơn khó nhọc. Võ Đức Diên cảm ơn rối rít. Trò chuyện một lúc, Võ Đức Diên xin phép ra về.

Về đến nhà, Diên cất chiếc phong bì vào tủ sắt rồi vui vẻ chơi đùa cùng mấy đứa con, một lúc sau Diên bỗng kêu mệt lên giường nằm. Qua một đêm vật vã vì những cơn sốt, Diên cứ đinh ninh mình bị cảm bèn mời bác sĩ quen đến khám. Thấy bệnh nhân có triệu chứng mệt mỏi, sốt, toát mồ hôi, bác sĩ ngỡ Diên bị cảm nên tiêm một mũi và cho thuốc uống qua loa. Không ngờ đến chiều, sau một hồi vật vã và xuất hạn mồ hôi đầm đìa, Diên quằn quại trút hơi thở sau cùng.

Ngô Đình Nhu.
 Ngô Đình Nhu.

200 người thoát chết trong gang tấc

Việc đào địa đạo phải được tiến hành ngay. Nhu giao cho đại tá Tung tìm người tín cẩn để giao phó công việc. Tung bảo đã tìm được một thiếu tá công binh, cũng là đảng viên đảng Cần lao Nhân, một người có năng lực và rất mực trung thành và Tung xin đứng ra bảo đảm về người này.

Việc đào hầm cần khoảng 200 công nhân luân phiên đào mỗi đêm vì công việc này không thể làm ban ngày được. Số công nhân này được lấy trong đám tù binh khỏe mạnh không có tông tích. Về quy trình làm việc sẽ được tiến hành như thế này: việc đào địa đạo sẽ được bắt đầu từ lúc 12h đêm, đến 4h sáng, 10 toán luân phiên nhau làm việc và mỗi toán có 20 người. Tất cả đều được đưa đến bằng xe bít bùng, mỗi người đều bị bịt mắt, khi vào bên trong mới được mở ra. Đất đào được cho vào túi nylon chuyển ra, chất lên xe và mang đi đổ. Tất cả những ai không phận sự tuyệt đối không được vào.

Công việc đào địa đạo được tiến hành ngay đêm hôm sau. Một thiếu tá công binh chỉ đạo từng toán 20 người lực lưỡng, quần áo ngắn, bị bịt mắt đưa vào phía sau phòng ngủ của cố vấn Nhu. Năm tên cận vệ của đại tá Tung mang súng ngắn canh chừng ở miệng hầm, có phận sự đưa từng toán nhân công từ xe vào phòng rồi tháo băng đen bịt mắt họ ra.

Những người tù binh khỏe mạnh, câm lặng và ngơ ngác biến hút dần xuống con đường hầm, chỉ nghe những tiếng thở mệt nhọc, tiếng cuốc chim nện lên nền đất cứng. Những túi bao tải đựng đầy đất, gạch vụn được chuyền tay đi. Đám cận vệ vũ trang chờ sẵn ở cửa hầm, lặng lẽ đặt lên vai mỗi tù binh một bao tải đất rồi bịt mắt từng người, thứ tự từng người bám vào lưng nhau tiến ra cửa. Đến gần bốn giờ sáng, thiếu tá công binh ra lệnh cho mọi người ngừng tay. Toán tù binh mồ hôi nhễ nhại, lại bị bịt mắt nối đuôi nhau hướng ra chiếc ô tô đã nổ máy chờ sẵn phóng ra khỏi dinh Gia Long khi trời còn mờ tối. Người cận vệ còn lại lo việc quét dọn lau chùi nền gạch từ cửa hầm đã được đậy kín ra tới tầng cấp sân sau, không để lại dấu vết nào của toán người đào địa đạo trong đêm.

Cứ thế mỗi đêm, đúng 12h, cổng sau dinh Gia Long mở ra khi ánh đèn pha chớp tắt ba lần, mấy chiếc xe bít bùng lầm lũi tiến vào sân, viên thiếu tá công binh cùng năm cận vệ với súng ống trong tay dẫn 20 tù binh vào hầm và tiếp tục công việc bí mật. Việc đào địa đạo trong 3 đêm đầu diễn ra thuận lợi nhưng đến đêm thứ tư thì xảy ra sự cố, đất bỗng cứng lại như đá tảng, xà beng nhá lửa bật trở lại, cuốc xẻng bị cong vênh, đám tù binh mồ hôi nhễ nhại, lắc đầu nhìn nhau bất lực. Viên thiếu tá công binh liên tục hò hét đốc thúc nhưng công việc vẫn không tiến triển chút nào.

Đêm hôm sau, việc đào địa đạo vẫn giậm chân tại chỗ, viên thiếu tá công binh đành cho tù binh nghỉ tay và báo việc này cho đại tá Tung.

Sáng hôm sau,Tung vào dinh rất sớm, lúc Nhu đang uống cà phê và hút thuốc lá tẩm á phiện, báo cáo việc đào địa đạo chắc không thực hiện được do móng nền dinh Gia Long được đổ bằng bê tông cốt thép theo ô vuông xuống sâu cả chục thước bởi khu vực này xưa kia là đất sình lầy nên phải đổ như thế để chống sụt lún. Tung cũng báo với Nhu là đã xem lại bản thiết kế cũ và nhận thấy không thể đào địa đạo ăn thông ra ngoài được.

Ngô Đình Nhu rất bực bội nhưng đành phải chấp nhận thất bại và việc đào địa đạo bị dừng lại vô thời hạn. Đây là điều may mắn cho 200 tù binh và cả những người lính canh bởi vì nếu việc đào địa đạo thành công thì có lẽ họ sẽ cùng chung số phận như Võ Đức Diên mà thôi.

Giết người diệt khẩu KTS thiết kế


Số phận Võ Đức Diên đã được đại tá Tung tính toán kỹ và báo cáo kế hoạch với Nhu là làm cho Diên im lặng vĩnh viễn để bảo toàn bí mật. Nhu đồng ý nhưng dặn Tung phải giải quyết thế nào cho gọn, đừng để xảy ra tai tiếng.

Tối hôm sau, Tung bảo Võ Đức Diên vào dinh gặp ông cố vấn. Vị kiến trúc sư tài hoa nhưng bất hạnh không biết tai họa đang chờ sẵn trên đầu, vui vẻ đến gặp Nhu tại dinh Gia Long. Đúng như kịch bản đã soạn sẵn: Cốc cà phê của Diên đã được đại tá Tung kín đáo bỏ thuốc độc từ trước, loại thuốc độc không màu, không mùi sẽ thấm vào tim, chết trong vòng 24 giờ mà bác sỹ có khám bệnh cũng không tìm ra nguyên nhân. Thương thay cho Võ Đức Diên, chết mà không hiểu tại sao mình chết. Và trước lúc chết hãy còn cám ơn Ngô Đình Nhu đã chiếu cố đến mình.

Mỗi sáng, Ngô Đình Nhu thức dậy, chưa kịp rửa mặt, dùng điểm tâm đã xuống địa đạo xem xét, rồi từ cửa hầm đi qua phòng khách vòng ra sân sau nơi mấy chiếc xe bít bùng đậu trong đêm. Nhu đưa mắt nhìn xung quanh khắp lượt, thấy không có dấu vết gì thì tỏ vẻ hài lòng

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU


Chuyện Quân đội Sài Gòn cướp kho báu (1)

(Kiến Thức) - Sau nhiều phút loay hoay cúng vái, cuối cùng chiếc trực thăng của Quân đội Sài Gòn chở theo những cổ vật từ đền Sóp cũng ỳ ạch cất cánh...

 Chuyện Quân đội Sài Gòn cướp kho báu (1)
Những ngôi đền chứa kho báu của người Chămpa ở vùng núi giáp ranh Lâm Đồng – Bình Thuận trải qua sự tàn phá của thời gian và con người nay đã trở nên hoang phế, điêu tàn.

Kho báu điêu tàn...

Đọc nhiều nhất

Tin mới

Có nên đốt trầm hương trên bàn thờ ngày Tết?

Có nên đốt trầm hương trên bàn thờ ngày Tết?

Theo quan niệm phong thủy, Trầm hương có khả năng thanh lọc không khí, xua đuổi tà khí và các năng lượng xấu. Việc đốt trầm trên bàn thờ Thần Tài, gia tiên liệu có nên hay không? Khi nào nên đốt trầm hương trên bàn thờ?