Bí ẩn lớn nhất triều đại nhà Thanh: Ung Chính sửa di chúc để đoạt vị?

Trong lịch sử Trung Quốc bất cứ triều đại nào cũng có những nghi án lớn trong hoàng tộc, nhà Thanh cũng không ngoại lệ.

Ung Chính là vị Hoàng đế thứ năm của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1722 đến 1735. Ông dùng niên hiệu Ung Chính trong suốt thời gian 13 năm trị vì, nên các sử gia thường gọi ông là Ung Chính Đế.
Là một vị Hoàng đế siêng năng, cần kiệm và có tinh thần chống tham nhũng, mục tiêu của Ung Chính là tạo ra một triều đình hiệu quả với chi phí thấp nhất và ông đã tiếp tục được sự thịnh trị gần 150 năm còn lại của Đại Thanh.
Nghi án Tứ Hoàng Tử Dận Chân (Ung Chính) sửa di chúc của Khang Hy để có thể kế thừa vương vị
Bi an lon nhat trieu dai nha Thanh: Ung Chinh sua di chuc de doat vi?
Chuyện bắt đầu từ năm 1708, tức năm Khang Hy thứ 47, tại hành cung Bố Nhĩ Cáp Tô Đài. Hôm đó, ngày 4.9, trước tất cả thân vương, đại thần, thị vệ, văn võ bá quan, Khang Hy tuyên bố, phế bỏ ngôi vị thái tử của Dận Nhưng. Sau đó ông vua đã ngoại ngũ tuần không kìm được bi thương mà rớt nước mắt.
Nửa năm sau, Dận Nhưng được phục hồi ngôi vị thái tử. Tuy nhiên, hơn ba năm sau, Khang Hy lại một lần nữa phế bỏ ngôi vị của Dận Nhưng. Cũng từ đó cho tới lúc chết, Khang Hy không một lần nào nhắc tới chuyện lập người kế vị nữa. Vị trí thái tử bị bỏ trống 7 năm.
Sử sách ghi chép lại rằng vào ngày 20/12/1722, hoàng đế Khang Hy đã gọi lại bên giường của mình 7 vị hoàng tử và Cửu môn đề đốc, Long Khoa Đa, người sẽ đọc di chiếu và tuyên bố Ung Chính là người kế vị ngai vàng.
Một số chứng cứ chứng tỏ rằng Dận Chân đã có liên kết với Long Khoa Đa từ vài tháng trước khi di chiếu được tuyên bố bằng sự chuẩn bị lực lượng quân đội, vì trong dự định của họ, binh biến là không thể tránh khỏi.
Việc lên ngôi của Ung Chính hoàng để còn có nhiều bí ẩn
Các truyện dân gian cho rằng Ung Chính đã thay đổi di chiếu của vua cha bằng cách thêm dấu vào và sửa đổi k‎í tự. Nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là việc Ung Chính đã thay đổi chữ "thập tứ" (十四) thành chữ "vu tứ" (于四, vu nghĩa là "cho"), một số khác cho rằng từ "thập tứ" thành "đệ tứ" (第四).
Khi các câu chuyện này truyền trong dân gian, cũng có một số ít chứng cứ cho quan điểm này, đặc biệt là dựa trên việc chữ "vu" (于) không được dùng rộng rãi trong suốt thời đại nhà Thanh, vì người ta thường dùng chữ "於".
Tiếp đó, phong tục của nhà Thanh là di chiếu sẽ được viết cả bằng tiếng Mãn Châu và tiếng Hán, mà tiếng Mãn Châu khó viết hơn, trong trường hợp này việc sửa di chiếu có lẽ khó khăn hơn.
Tuy nhiên, dù có nhiều nghi ngờ dấy lên khi mà di chiếu viết bằng tiếng Mãn bị thất lạc đâu đó và di chiếu bằng tiếng Hán, đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng sử Trung Quốc, chỉ được ban bố 2 ngày sau cái chết của Khang Hy.
Một số nhà sử đưa ra giả thuyết rằng Ung Chính không thay đổi di chiếu nhưng đã viết một bản khác.

Điều đáng kinh ngạc về hậu cung triều Thanh

"Đẹp" trở thành một trong những điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống của phi tần nhà Thanh.

Theo People, chốn thâm cung như một chiếc lồng chim lớn, trong đó phạm vi hoạt động của các phi tần bị giới hạn rất nhiều. Họ vô cùng cô độc, tâm tình phiền muộn, không được vận động nhiều nên đa số đều yếu ớt và lắm bệnh. Vì vậy, họ thường làm bạn với thuốc thang để bồi bổ sức khỏe.

Triều đại nhà Thanh hưng thịnh, lụi tàn là do phong thủy?

Liệu có thật do phong thủy mà triều đại nhà Thanh hưng thịnh nhiều đời nhưng cuối cùng lại lụi tàn cũng vì phong thủy hay không?

Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1609. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu.

Đọc nhiều nhất

Tin mới