Xử lý thế nào khi quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị vi phạm trên báo chí?

(Kiến Thức) -Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trả lời vấn đề: Xử lý thế nào khi quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị vi phạm trên báo chí.

Hỏi:Trong hoạt động báo chí, nếu đăng phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật trên các phương tiện thông tin, tạo hiệu ứng lan truyền nhanh trong cộng đồng, nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh thì sẽ xử lý như thế nào?

Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trả lời vấn đề này như sau:

** Thông tin có tính chất tham khảo, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.

Bản thân quyền nhân thân đối với hình ảnh là một quyền tuyệt đối của cá nhân. Quyền này hoàn toàn được bảo vệ một cách vô điều kiện khi cá nhân có hình ảnh thấy rằng hình ảnh của mình bị xâm phạm. Quyền cá nhân đối với hình ảnh được pháp luật ghi nhận và bảo vệ có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi cá nhân, đây là yếu tố tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, hình ảnh của mỗi cá nhân bị xâm phạm không chỉ ảnh hưởng về mặt tinh thần mà còn ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm.

Theo quy định tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.”. Ngoài ra, tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013, quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”

Vì vậy, việc pháp luật ghi nhận và bảo vệ cho mỗi cá nhân quyền đối với hình ảnh đảm bảo quyền nhân thân, hạn chế một cách tối đa nhất hành vi xâm phạm.Hành vi phát tán hình ảnh của cá nhân xâm hại tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Hành vi này thực hiện bằng cách khi có được hình ảnh của một người nào đó, nhất là hình ảnh thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân, hình ảnh có tính chất “nhạy cảm”có thể xuất phát từ động cơ thiếu trong sáng hoặc bất kỳ lí do nào họ đã đăng tải trên các phương tiện thông tin, tạo hiệu ứng lan truyền nhanh trong cộng đồng, nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh hoặc chỉ để “trêu đùa”; “khoe khoang” mà không có dụng ý xấu. Và theo quy định của pháp luật, người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm.

Khi thấy hình ảnh cá nhân bị sử dụng mà không được sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật và thông tin quy kết lỗi, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống hoặc gây hiểu lầm làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, đơn vị trên báo chí, đồng thời, các thông tin này không phù hợp với chuẩn mực của báo chí, không phù hợp trách nhiệm người làm báo, có thể gây tác động xấu, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của cá nhân, đơn vị thì các cách giải quyết theo quy định điều 43 Luật Báo Chí 2016 như sau:

1. Phản hồi bằng văn bản đến cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí (Cục Báo chí - Bộ Thông tin và Truyền thông).

2. Khởi kiện tại Tòa án.

Theo quy định tại điều 8, Nghị Định 159/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản về các mức phạt khi vi phạm quy định về nội dung thông tin như sau:

'' Điều 8. Vi phạm quy định về nội dung thông tin

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Không viện dẫn nguồn tin hoặc viện dẫn sai nguồn tin khi đăng, phát trên báo chí;

b) Không ghi rõ họ, tên thật hoặc bút danh của tác giả, nhóm tác giả của tin, bài khi sử dụng để đăng, phát trên báo chí;

c) Sử dụng tin, bài để đăng, phát trên báo chí nhưng không biết rõ tên thật, địa chỉ của tác giả, nhóm tác giả.

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đăng, phát thông tin sai sự thật nhưng chưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng;

b) Minh họa, rút tít không phù hợp nội dung thông tin làm cho người đọc hiểu sai nội dung thông tin;

c) Đăng, phát thông tin về những chuyện thần bí, các vấn đề khoa học mới trên tạp chí nghiên cứu chuyên ngành nhưng không có chú dẫn xuất xứ tư liệu;

d) Tiết lộ bí mật đời tư khi chưa được sự đồng ý của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

đ) Công bố tài liệu, thư riêng của cá nhân khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

e) Đăng, phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người đó, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đăng, phát thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng;

b) Miêu tả tỷ mỉ hành động dâm ô, chém, giết, tai nạn rùng rợn trong các tin, bài, ảnh;

c) Đăng, phát tin, bài, ảnh kích dâm, khỏa thân, hở thân thiếu thẩm mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam;

d) Đăng, phát thông tin truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan;

đ) Đăng, phát thông tin về những chuyện thần bí, các vấn đề khoa học mới chưa được kết luận trên ấn phẩm không phải tạp chí nghiên cứu chuyên ngành;

e) Đăng, phát thông tin về thân nhân và các mối quan hệ của cá nhân trong các vụ án, vụ việc tiêu cực khi không có căn cứ chứng minh những thân nhân và các mối quan hệ đó liên quan đến vụ án, vụ việc tiêu cực hoặc chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

g) Khai thác để đăng, phát các văn kiện, tài liệu của tổ chức, tài liệu, thư riêng của cá nhân có liên quan đến các vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các vụ việc tiêu cực hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật đang chờ kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng không nêu rõ xuất xứ của các văn kiện, tài liệu, thư riêng;

h) Sử dụng hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia.

4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đăng, phát bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia;

b) Đăng, phát thông tin xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

5. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đăng, phát thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng;

b) Đăng, phát thông tin kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy.

6. Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đăng, phát các tác phẩm đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;

b) Đăng, phát thông tin gây phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc gây mất đoàn kết dân tộc.

7. Hình thức xử phạt bổ sung:

a) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm h Khoản 3, các khoản 4, 5 và 6 Điều này;

b) Tước quyền sử dụng giấy phép từ 01 đến 03 tháng đối với hành vi quy định tại Khoản 5 và Khoản 6 Điều này.

8. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc cải chính, xin lỗi đối với hành vi quy định tại các điểm a, b, d, đ và e Khoản 2, các điểm a, e và g Khoản 3, các khoản 4, 5 và 6 Điều này.''

Như vậy, cá nhân, đơn vị có thể chọn cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng con đường khiếu nại tới Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông để xử lý đối với một số sai phạm của cơ quan báo chí và đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về báo chí xem xét xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi vi phạm hành chính, cụ thể: hành vi đăng, phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật, hành vi đăng tải thông tin quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tòa án, sai sự thật gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng, các thông tin này không phù hợp với chuẩn mực của báo chí, không phù hợp trách nhiệm người làm báo, có thể gây tác động xấu, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, hình ảnh của cá nhân, đơn vị theo quy định tại điều 9 Luật Báo Chí 2016 về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động báo chí.

Xu ly the nao khi quyen cua ca nhan doi voi hinh anh bi vi pham tren bao chi?
Luật sư Đặng Kim Ngân Hà. 
 

Xử lý thế nào với hành vi cạnh tranh không lành mạnh?

(Kiến Thức) - Theo Luật sư Đặng Kim Ngân Hà, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang gây thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của Universal Network Connection (UNC). 

Luật sư Đặng Kim Ngân Hà – đại diện của Công ty Universal Network Connection (UNC) cho hay, Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong những quyền được pháp luật tôn trọng được quy định tại điều 3 Luật cạnh tranh 2018, cụ thể: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác".
Điều 45 nêu Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như sau: ''Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác.''

Xử lý thế nào với bài toán công nợ cho doanh nghiệp?

(Kiến Thức) -Công nợ luôn là câu chuyện mâu thuẫn dài kỳ không có hồi kết mà mọi doanh nghiệp đều phải đối mặt. 

 Một số doanh nghiệp thường e ngại đối đầu với khách hàng về các khoản công nợ phải thu, dẫn tới hệ quả liên đới là chính doanh nghiệp chậm trả công nợ tới nhà cung cấp và đối tác tương ứng, vì vậy công nợ phải thu, phải trả ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền, sức khỏe tài chính doanh nghiệp và làm “sứt mẻ” mối quan hệ làm ăn lâu dài với đối tác liên quan. Một số doanh nghiệp khác lại tìm đến “xã hội đen” để thuê đi thu hồi công nợ, từ đây chủ nợ trở thành tội phạm và vướng vào vòng lao lý khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, xử lý thế nào với bài toán công nợ cho doanh nghiệp một cách hợp pháp?

Luật sư Đặng Kim Ngân Hà nêu quan điểm về câu chuyện ''muôn hình vạn trạng bài toán thu hồi công nợ của doanh nghiệp'', theo đó: 

Thanh toán chậm, nhỏ giọt, cố tình lẩn tránh, thiếu trách nhiệm hoặc nợ xấu trong giao dịch thương mại khiến dòng tiền của doanh nghiệp bị tắc nghẽn và xảy ra các hệ quả liên đới ở một mức độ nhất định. Xét về góc độ hình sự, một số doanh nghiệp đã không lựa chọn các biện pháp thu hồi công nợ hợp pháp mà chọn thuê xã hội đen để gây sức ép lên tinh thần và tính mạng của con nợ nhằm mục đích là đòi được nợ.

Các hành vi này, tùy vào mức độ, tính chất có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về một trong các tội danh: Tội đe dọa giết người; Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác; Tội cướp tài sản hoặc Tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định Bộ luật Hình sự 2015, ví dụ cụ thể: Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không. Tội cướp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó. Không chỉ các đối tượng “xã hội đen”, người trực tiếp thực hiện hành vi đòi nợ phạm tội mà người đi thuê cũng có thể phạm tội với vai trò là đồng phạm. Vì vậy chủ nợ có thể sẽ vướng phải vòng lao lý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội Cướp tài sản.

Xét về góc độ thương mại, có những tình huống éo le đối với những doanh nghiệp đứng ở vị trí trung gian, hợp đồng giao dịch thương mại với khách hàng trong nước theo thỏa thuận được hiểu và chịu sự điều chỉnh của Pháp luật Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên mọi lĩnh vực liên quan tới hiệu lực, cách giải thích và thực hiện hợp đồng. Khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán, giới hạn “mức trần” phạt vi phạm theo quy định Luật Thương mại 2005 và Luật Xây dựng 2014 thì căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% hoặc 12%. Tuy nhiên, hợp đồng giao dịch thương mại với các nhà cung cấp và đối tác nước ngoài, theo thỏa thuận Luật điều tiết và toà án để giải quyết tranh chấp là của nước sở tại và pháp luật nước sở tại thường không giới hạn mức trần về phạt vi phạm hợp đồng khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.

Qua quá trình thực tiễn cố vấn pháp lý về các giao dịch có yếu tố nước ngoài, theo quan điểm của tôi, các đối tác đã tìm hiểu khá kỹ về pháp luật Việt Nam và hiểu được sự hạn chế mức trần phạt vi phạm thương mại. Do đó, ngay tại giai đoạn đàm phán, họ đã căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng và yêu cầu khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế phải chịu sự điều chỉnh và chi phối của Luật nước thứ ba như Anh và Singapore hoặc nước sở tại. Trong trường hợp các bên thuộc các nước đã tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên 1980), thì đối tác yêu cầu thỏa thuận thêm tại hợp đồng điều khoản không áp dụng Công ước Viên cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đó. Vì vậy, mức phạt vi phạm là do các bên thỏa thuận và không giới hạn mức trần theo pháp luật nước sở tại cho phép, ví dụ cụ thể theo thực tiễn đàm phán thương mại, tại Hợp đồng dịch vụ với đối tác nước ngoài, họ quy định cụ thể trong trường hợp phía doanh nghiệp tại Việt Nam vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì phải chịu mức phạt vi phạm 50% - 200% giá trị hợp đồng hoặc cao hơn nữa, đồng thời dự liệu trước một mức bồi thường cụ thể bằng tiền hay được tính theo một công thức nhất định thông qua điều khoản xác định mức bồi thường thiệt hại cụ thể để bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại.

Việc không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn và treo công nợ từ khách hàng trong nước khiến cho doanh nghiệp không đạt được mục đích chính của việc giao kết hợp đồng là thu lợi nhuận và hệ quả tiếp nối là doanh nghiệp còn phải đền bù hợp đồng với các nhà cung cấp thứ ba liên quan đến giao dịch, các chế tài đi kèm thường được áp dụng là tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng.

Trong trường hợp đã áp dụng các chế tài thương mại nhưng khách hàng vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà các bên không thể thương lượng, hòa giải được thì doanh nghiệp có quyền được kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp (Tòa án hoặc Trọng tài thương mại) để thu hồi công nợ theo hợp đồng, tiền lãi trên số tiền chậm trả, phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại (nếu có). Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

Xu ly the nao voi bai toan cong no cho doanh nghiep?
Luật sư Đặng Kim Ngân Hà. 

Đọc nhiều nhất

Làng hương cổ ở Hà Nội tất bật hàng Tết

Làng hương cổ ở Hà Nội tất bật hàng Tết

Những ngày cận Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, làng nghề làm hương tại xã Quảng Phú Cầu (Hà Nội) lại tất bật. Khắp các xưởng, không khí lao động trở nên hối hả, máy móc hoạt động hết công suất.

Tin mới

Làng hương cổ ở Hà Nội tất bật hàng Tết

Làng hương cổ ở Hà Nội tất bật hàng Tết

Những ngày cận Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, làng nghề làm hương tại xã Quảng Phú Cầu (Hà Nội) lại tất bật. Khắp các xưởng, không khí lao động trở nên hối hả, máy móc hoạt động hết công suất.