Vì sao Hàn Tín chịu nhục chui háng mà không giết tên vô lại?

Là bậc danh tướng kiệt xuất, bách chiến bách thắng, giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán. Tuy nhiên, ít người biết rằng thời niên thiếu Hàn Tín đã phải chịu biết bao sự khinh rẻ của người đời.

Vì sao Hàn Tín chịu nhục chui háng mà không giết tên vô lại?

Hàn Tín (231 - 196 TCN), là một trong những vị tướng lỗi lạc của Trung Quốc, người đã có công lớn trong việc thiết lập triều đại nhà Hán. Ông được người đời công nhận là một chiến lược gia quân sự tài ba, bất khả chiến bại, được xem là một trong “Tam kiệt” của nhà Hán cùng với Tiêu Hà và Trương Lương. Hàn Tín có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm. Nhưng thuở chưa thành danh, vì gia cảnh bần cùng mà ông phải chịu biết bao sự khinh rẻ của mọi người.

Vi sao Han Tin chiu nhuc chui hang ma khong giet ten vo lai?

Tạo hình nhân vật Hàn Tín trong phim Hán Sở tranh hùng.

Ông sinh ra trong gia cảnh bần cùng, sa sút vì vậy trong lịch sử không có nhiều ghi chép chi tiết về gia đình ông. Có ghi chép nói rằng, Hàn Tín sinh sống cuộc sống thanh bần cùng người mẹ của mình. Trong nhà Hàn Tín có cất chứa binh thư và bảo kiếm vì vậy ngay từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với chúng, đồng thời ông cũng nhận được sự giáo dục tốt đẹp ngay từ bé.

Cũng có ghi chép nói rằng, tổ tiên của Hàn Tín thuộc tầng lớp quý tộc trong xã hội.

Sau khi mẹ qua đời, cuộc sống của Hàn Tín càng thêm khốn khó. Ông thường xuyên không có cơm ăn. Bởi vì nghèo khổ nên Hàn Tín cũng phải chịu đủ mọi ánh mắt và sự khinh bỉ, bắt nạt của người khác.

Lý do chịu nhục chui háng

Thời Hàn Tín chưa thành danh còn có một việc phát sinh lưu truyền đến muôn đời sau đó là chuyện Hàn Tín “chịu nhục chui háng”.

Thời ấy, gia cảnh bần cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nhưng chí hướng của Hàn Tín đặt ở nơi cao xa, ông rất giỏi võ và thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm.

Vi sao Han Tin chiu nhuc chui hang ma khong giet ten vo lai?-Hinh-2

Hàn Tín chịu nhục chui háng.

Trong thành Hoài Âm có một kẻ vô lại là con trai của một người đồ tể, kẻ vô lại này rất ngang ngược, thường hay bắt lạt người khác. Một lần vì muốn hạ nhục Hàn Tín nên hắn ta đã ở nơi đông người mà chặn đường ông.

Kẻ vô lại nói: “Ngươi khoác kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Ngươi dám sát nhân thì chặt đầu của ta xem. Nếu ngươi không dám sát nhân thì ngươi chui háng ta mà đi”.

Đối mặt với sự khiêu khích đột nhiên xảy đến này, Hàn Tín không hề sợ hãi mà nhìn thẳng vào kẻ vô lại thật lâu. Hàn Tín biết mình có thể hạ gục tên vô lại nhưng cũng biết mình sẽ phải trả giá bằng mạng sống nếu giết hắn. Vì vậy cuối cùng thay vì chứng tỏ tài nghệ của mình, ông quyết định chui háng tên vô lại bất chấp mọi người xung quanh cười nhạo.

Sau này, Hàn Tín thường dùng sự việc này để nhắc nhở mình, làm động lực thực hiện hoài bão. Nói lên tâm đại nhẫn của bậc đại trí. Đó là một tính cách quan trọng của bậc trượng phu nếu muốn dựng nghiệp lớn trong đời. Sau này khi vinh quy bái tổ, Hàn Tín cũng không báo thù kẻ ấy, ngược lại còn cho anh ta vào làm lính trong quân của mình.

Đằng sau nỗi nhục chui háng là một hào kiệt xưa nay hiếm

Vi sao Han Tin chiu nhuc chui hang ma khong giet ten vo lai?-Hinh-3

Hàn Tín là một trong những vị tướng lỗi lạc của Trung Quốc.

Người thản nhiên chịu nhục có thể phân làm hai loại: Một loại là người có ý chí tinh thần sa sút, sống tạm bợ, chỉ biết hưởng an nhàn bản thân. Còn loại kia là người có chí hướng cao xa, co được giãn được, nhẫn chịu được gánh nặng. Đây là những người biết nhìn xa trông rộng.

Thời xưa người ta gọi họ là “hào kiệt chi sĩ”, hay “kẻ sĩ hào kiệt”. Những người này tất có khí tiết hơn người thường. Người bình thường thấy nhục liền “rút kiếm tương đấu”. Người xưa cho rằng, đây không phải là cái “dũng” của kẻ sĩ.

Người đại dũng trong thiên hạ, gặp nguy mà không kinh, gặp rủi ro vô cớ mà không phẫn nộ. Người làm được việc lớn, ắt phải có tâm đại nhẫn, có tĩnh khí, và Hàn Tín thực sự đã làm được điều này.

Cho đến tận ngày nay, những điển tích Hàn Tín chịu nhục vẫn còn được lưu truyền mãi, nhắc đến khả năng “nhẫn nhịn”, người ta đều nhắc đến ông để làm tấm gương mà noi theo.

Hai kẻ trộm mộ khét tiếng nhất thời Tam Quốc là ai?

Đổng Trác và Tào Tháo không chỉ là những quyền thần nhà Đông Hán, Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, mà họ còn là những người đào trộm mộ.

Hai kẻ trộm mộ khét tiếng nhất thời Tam Quốc là ai?
Theo các nhà nghiên cứu, trộm mộ là hiện tượng xuất hiện gần như đồng thời với sự nảy sinh của văn hóa mộ táng tại Trung Quốc. Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, trong nhân gian đã có chuyện trộm mộ, nhưng có ảnh hưởng sâu rộng nhất, phải tính đến vụ Ngũ Tử Tư đào mộ Sở Bình Vương, lấy roi quật xác rửa hận làm đầu.

Người này sau khi chết, Lưu Bang ôm đầu khóc thảm thiết

Vị tướng quân này từng được Lưu Bang mời về phong vương nhưng lại quyết định tự vẫn khiến Lưu Bang lần đầu khóc thương.

Người này sau khi chết, Lưu Bang ôm đầu khóc thảm thiết

Làm người không thể quá kiêu ngạo nhưng nhất định phải có cốt cách ngang tàng, có chính kiến, có lý tưởng. Người xưa thường đặt “trung nghĩa” ở vị trí quan trọng hàng đầu, thế nên có vô số các ví dụ về hành động xả thân vì nghĩa. Mạnh Tử từng nói: “Sống là mong muốn của ta, nghĩa cũng là mong muốn của ta. Cả hai không thể đồng thời có được, thế nên tốt hơn hết là hy sinh thân mình vì nghĩa".

Vén màn bí ẩn chuyện "tình một đêm" của Hán Cao Tổ Lưu Bang

Sau một "đêm xuân" với Hán Cao Tổ Lưu Bang, mỹ nhân Bạc Cơ mang long thai. Bà sinh được hoàng tử Lưu Hằng - người về sau trở thành hoàng đế thứ 5 của nhà Hán.

Vén màn bí ẩn chuyện "tình một đêm" của Hán Cao Tổ Lưu Bang
Ven man bi an chuyen
 Hán Cao Tổ Lưu Bang được người đời nhớ đến là hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán. Từ một người với xuất thân nghèo khó, Lưu Bang dốc sức xây dựng cơ nghiệp và trở thành hoàng đế quyền lực. Khi trở thành người đàn ông quyền lực nhất đất nước, Lưu Bang tuyển nhiều mỹ nhân vào hậu cung để nâng khăn sửa túi cho mình. Trong số này có một mỹ nhân tên Bạc Cơ. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới