Vị quan đa tài đi sứ xin đổi tên nước

(Kiến Thức) - Lê Quang Định là người thông mẫn hoạt bát. Ông còn có biệt tài là viết chữ đẹp và vẽ tranh thuỷ mặc rất giỏi.

Những năm đi sứ bên nhà Thanh đi đến đâu ông cũng ngâm thơ thư họa và vẽ phong cảnh đến đấy. Người Tàu rất khen ngợi ông. Trịnh Hoài Đức đã tập hợp tất cả những văn thơ của mình cùng với của Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh hợp thành một bộ đem in, gọi là Gia Định tam gia thi.

Đi sứ xin đổi tên nước
Lê Quang Định, tự Tri Chí, hiệu Tấn Trai người huyện Phú Vinh, tỉnh Thừa Thiên. Cha tên là Sách làm quan thủ ngự tại Đà Bồng Nguyên bị mất đột ngột trong khi đang làm việc tại nhiệm sở. Cha mất sớm, gia đình rơi vào cảnh nghèo túng, Lê Quang Định cùng với anh trai là Lê Quang Hiến vào đất Gia Định để kiếm sống.
Lớn lên Lê Quang Định có tư chất thông minh, ham học hỏi. Có một thầy thuốc là Hoàng Đức Thành đem về nhà nuôi dạy cho học hành và gả con gái cho. Từ đó Lê Quang Định lại càng siêng năng chăm chỉ học hành, ngao du đây đó và kết bằng hữu với rất nhiều người bạn học cùng lứa. Sau đó, Lê Quang Định kết bạn với Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh. Họ là những người tâm đầu ý hợp, cùng giỏi thơ văn, cả ba người lập ra một hội làm thơ gọi là Bình Dương thi xã được giới văn sĩ đương thời hưởng ứng.
Sau khi khắc phục được thành Gia Định, năm Mậu Thân (1788) vua Gia Long cho mở khoa thi để kén nhân tài. Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức cùng ra ứng thí và cả hai ông cùng đỗ một khoa, đều được bổ dụng vào làm Hàn lâm viện chế cáo. Sau đó Lê Quang Định được thăng lên làm Binh bộ hữu tham tri.
Năm Canh Thân (1800), Lê Quang Định cùng Nguyễn Văn Nhân phò Đông cung Cảnh ở lại giữ thành Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802), Lê Quang Định được thăng Binh bộ Thượng thư và đến mùa đông năm ấy, được cử làm chánh sứ, cùng với hai giáp, ất phó sứ Lê Chính Lộ và Nguyễn Gia Cát phụng chỉ sang sứ bên nhà Thanh để cầu phong.
Hôm vào bệ kiến vua nhà Thanh, Lê Quang Định tâu với vua Gia Khánh rằng: Triều Nguyễn có cả đất An Nam và đất Việt Thường khác hẳn với các triều đại trước đây. Vậy xin được đổi An Nam cũ thành Nam Việt. Vua Thanh bèn sai Án sát tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang phong và đổi lại là Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam có từ đấy.
Tranh minh họa.
 Tranh minh họa.
Biên soạn Nhất thống dư địa chí
Khi hết hạn đi sứ, Lê Quang Định trở về và nhận lại chức vụ cũ. Đến năm Bính Dần (1806), Lê Quang Định phụng mạng biên soạn cuốn Nhất thống dư địa chí. Lê Quang Định kê cứu các đồ tịch trong nước, thu lượm tài liệu, khảo sát thực tế chép thành một cuốn: Phía Nam tới Hà Tiên, phía Bắc tới Lạng Sơn. Trong sách, từ phong tục, tập quán, thổ sản cho đến các sông, núi, đường sá đều được ghi chép một cách rõ ràng. Sau khi biên soạn xong, Lê Quang Định dâng lên được đức thế tổ cho là tường tận lắm, đầy đủ lắm và ban khen.
Đến năm Kỷ Tỵ (1808), Lê Quang Định được thăng lên Hộ bộ thượng thư kiêm coi việc Khâm thiên giám. Năm Canh Ngọ (1810), Lê Quang Định phụng mệnh lập sổ điển, chia ruộng đất làm 5 hạng tốt xấu khác nhau. Công việc đang đi vào nền nếp thì đến năm Quý Dậu, niên hiệu (1813) Lê Quang Định bị bệnh nghỉ ở nhà. Đức Thế Tổ sai ông Hoàng Kiến An thân đến tận nhà thăm hỏi, lại sai trung sứ đem nhân sâm và quế ban cho. Nhưng không được bao lâu thì Lê Quang Định mất, hưởng thọ 54 tuổi.
Vua Gia Long lấy làm thương tiếc vô cùng. Hôm đưa đám nhà vua cử cả chiến thuyền đi hộ tống ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Năm Nhâm Tý, đời Tự Đức thứ 5 (1852) Lê Quang Định được liệt vào hạng Trung hưng công thần miếu.

Vị quan thanh liêm bậc nhất triều Nguyễn

(Kiến Thức) - Danh thần Trương Đăng Quế nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, được cả ba đời vua nhà Nguyễn trọng dụng.

Cùng học với các hoàng tử
Trương Đăng Quế tự Duyên Phương, tên hiệu là Đoan Trai, người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Tổ tiên ông vốn người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, theo Nguyễn Hoàng vào cư trú tại Quảng Ngãi năm 1624. Trương Đăng Quế sinh ngày 1/11 năm Quý Sửu (1793). Năm lên 9 tuổi ông mồ côi cha, là cậu bé chăm chỉ thông minh, hiền lành nên được anh chị em thương yêu đùm bọc. Năm 27 tuổi, ông đậu Hương cống (cử nhân) khoa Kỷ Mão (1819) triều Gia Long thứ 18. Tuy chỉ đậu cử nhân, nhưng ông thông suốt kinh sách, có tài thơ văn.

Quan thanh liêm dẹp nạn sách nhiễu

(Kiến Thức) - Bốn điều thay đổi tệ nạn sách nhiễu dân của các quan lại được Nguyễn Cư Trinh trình bày trong tờ sớ dâng lên chúa Nguyễn Phúc Khoát.

Mười con dê chín người chăn
Nguyễn Cư Trinh hiệu Dạm An, người xã An Hòa, huyện Hương Trà. Cụ tổ sáu đời là Trịnh Cam, người xã Phù Lưu Tràng, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là xã Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) làm Thượng thư bộ Binh thời Hậu Lê. Gặp lúc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông bỏ triều, không hợp tác với nhà Mạc lánh về quê, sau đó vào đất Thuận Hóa. Đến đời cha là Trịnh Đăng Đệ được chúa Nguyễn Phúc Chu cho đổi họ Trịnh ra họ Nguyễn Đăng là họ nhà Chúa (năm 1708). Nguyễn Cư Trinh (đời thứ 8) là con thứ bảy của Nguyễn Đăng Đệ, tuổi nhỏ đã giỏi văn. Lúc lớn học rộng hay thơ lại có mưu lược.

Đọc nhiều nhất

Tin mới