Thú vui của “bạo chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn

"Bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn tiêu khiển bằng đủ thú vui, hết câu cá đến đá gà, thậm chí cưỡi bò chạy lông nhông ngoài phố...

Thú vui của “bạo chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn
Do có cha từng là quan đại thần triều Nguyễn, nên tuổi thơ của Ngô Đình Cẩn cũng như những người anh em ruột của mình đều được trải qua trong sự giàu sang, nhung lụa. Khác với những người anh em ruột của mình, từ nhỏ Ngô Đình Cẩn cũng được gia đình cho đi học ở trường dòng Pellerin Huế, thế nhưng, vì bản tính nghịch ngợm, ham chơi hơn học nên đến năm lớp 3, Ngô Đình Cẩn bị cái nhọt to bằng nắm tay mọc ngay trên đỉnh đầu gây chảy mủ rất hôi hám nên phải nghỉ học.
Thu vui cua “bao chua mien Trung” Ngo Dinh Can
“Bạo chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn. 
Sau một thời gian chạy chữa, thuốc thang rồi cũng khỏi, tuy nhiên, Ngô Đình Cẩn đã bỏ học luôn để ở nhà rong chơi cùng chúng bạn ngoài đời. Ngô Đình Cẩn nghỉ học được mấy năm thì gia cảnh bắt đầu có phần sa sút vì cha Cẩn - ông Ngô Đình Khả bị triều đình giáng chức và buộc phải về nhà "ngồi chơi xơi nước".
Bực bội với chính quyền đô hộ thực dân Pháp vô đạo và đám quan lại đương triều, ngày ngày ông Ngô Đình Khả cứ vào ra càm ràm, chửi bới đến nỗi bị vướng vào tâm bệnh rồi qua đời. Hồi ấy, tuy gia cảnh của cha mẹ Cẩn có phần sa sút nhưng trong nhà vẫn còn của ăn của để, ruộng đất còn nhiều, vẫn có người ăn kẻ ở để hầu hạ bà mẹ già (mà người đời lúc đó vẫn thường gọi là mệ Cố) và chăm sóc vườn tược cây trái. Các anh và em Cẩn có người đã thành gia thất, có người đi học tận trời Tây, có người đi làm quan ở vùng đất khác; các chị gái của Cẩn đều cũng đã vu quy về nhà chồng. Chỉ còn lại duy nhất một mình Cẩn sớm tối quanh quẩn bên mẹ già, nên được anh chị em trong gia đình phó thác cho trách nhiệm chăm sóc mẹ, vì lẽ đó mà Cẩn rất được mọi người trong gia đình chiều chuộng, nhẹ lời.
Theo truyền thống thì thường chỉ có người con trai trưởng trong gia đình mới được hưởng tập ấm. Nhưng đối với gia đình ông Ngô Đình Khả có lẽ vì các con lớn đều đã có phẩm hàm riêng với lại không cùng chung sống với gia đình nên chỉ có Ngô Đình Cẩn dẫu rằng không phải là con út trong nhà nhưng vì sinh sống cùng mẹ nên được hưởng sự ưu ái thừa hưởng hương hỏa của cha mẹ.
Ngày còn nhỏ, người ta gọi Cẩn bằng cái tên là Ụt (Theo lý giải của xơ Marie Madeleine Trương Thị Lý (1925) là con gái của bà Ngô Đình Thị Giao (tục gọi là bà Thừa Tùng) và là cháu gọi Cẩn bằng cậu ruột, cũng như lời kể của nhiều giáo dân cao niên sinh sống quanh họ đạo Phủ Cam thì ngày trước trong gia đình ông Khả thường gọi Cẩn là Ụt và gọi cậu út Ngô Đình Luyện là Ịt. Vì cứ gọi bằng tên tục như thế cho nên lâu ngày trại ra từ Ụt thành Út và người ta gọi cậu ấm Ụt Cẩn thành cậu Út Cẩn từ lúc nào chẳng ai hay mà cũng không ai buồn cải chính cho cái tên tục ấy.
Út Cẩn có cái thú chơi của một anh điền chủ nên thích nhai trầu bỏm bẻm mỗi khi chơi cờ hay đi thăm thú ruộng vườn, vì vậy mà lúc bấy giờ người ta còn gọi Cẩn bằng cái biệt danh khác là "Cậu út trầu". Về sau này, khi Cẩn nắm quyền cai trị khét tiếng tàn bạo, dã man cực độ nên dân chúng gọi Cẩn là "Bạo chúa miền Trung" hay "Lãnh chúa miền Trung", hồi đó không bao giờ đám tay chân xu nịnh xung quanh Cẩn dám gọi tên mà thường xưng hô với nhau về Cẩn bằng danh từ "Ông cậu", mỗi khi có việc gì cần trình báo với Cẩn thì chúng thưa rằng "Bẩm cậu" hoặc là "bẩm ông cố vấn". Chỉ duy nhất anh em trong nội thân gia đình là vẫn thường gọi là Út Cẩn.
Nói về những thú vui tiêu khiển của Cẩn, nhiều giáo dân cao niên sống trong vùng họ đạo Phủ Cam kể rằng: Trong các thú vui, Cẩn mê nhất là câu cá và khả năng câu cá của Cẩn cũng đạt đến độ thượng thừa. Dẫu rằng sau này, khi đã chễm chệ với chức "cố vấn", giữ ngôi “lãnh chúa miền Trung”, Cẩn vẫn rất mê đi câu cá. Thường thường là "ông cậu" xách cần ra câu ở bến Phủ Cam, đôi khi thay đổi thì xuống câu ở bến An Cựu, hoặc ra sông Hương, có khi về câu ở Tân Mỹ vùng cửa biển Thuận An hoặc ngược lên câu ở khe Châu Ê gần Lăng Khải Định. Mỗi khi "cậu Cẩn" ngồi câu cá, thường là có hai gia nô ngồi hai bên để móc mồi, gỡ cá.
Cứ mỗi lần "ông cậu" giật cá qua bên phải hay bên trái là ngay lập tức gia nô phải gỡ cá, móc mồi cho thật nhanh, chậm chạp là bị Cẩn mắng chửi ngay tắp lự hoặc có khi còn bị đánh đập một cách oan uổng. Cẩn mê câu và rành câu đến mức chỉ cần nhìn tăm nước là đoán biết đường đi của cá và đó là loại cá gì để thả câu. Mỗi lần đi câu như thế, bao giờ Cẩn cũng giáo huấn cho những người đi câu cách móc mồi thế nào cho nhanh, dùng loại mồi nào mà mỗi loại cá thích nhất, khi cá đã cắn câu thì phải giật như thế nào cho chắc ăn…
Ngoài thú đi câu cá, Ngô Đình Cẩn còn có thú chơi đá gà và là một tay chơi gà đá thuộc vào hàng cự phách. Loài gà nào đá hay, giống gà nào lỳ đòn có thể thư hùng được nhiều hiệp đấu, tướng con gà nào khi đá sẽ tung ra đòn hiểm ở hiệp quyết định,… Cẩn đều rất tỏ tường. Nhờ vậy mà những con gà nòi của "cậu Cẩn" thường xuyên giành được thắng lợi trong những trận tỷ thí với những thần kê nức tiếng khác trong vùng.
Cẩn là một con người rất lạ, đã chơi thứ gì là mê thứ đó, khi chơi gà là dành phần lớn thời gian trong ngày để chăm sóc chúng, đem được một con gà hay từ nơi khác về là lăng xăng đi xin nước đái trẻ con cho gà uống, cẩn trọng tự tay nấu nước chè lá để hơ háp cho gà, tắm nắng đúng giờ và trùm màn cho gà trước khi trời tối. Chim chóc cũng thế, trong vườn nhà Cẩn lúc nào cũng líu lo tiếng hót của các loài chim. Con nào hay là được Cẩn treo ngay cây khế trước hiên nhà, bên dưới là bộ phản bằng gỗ quý, sáng sáng, trưa trưa, Cẩn nằm ở đó để đếm từng tiếng gù của chim cu cườm…
Trong gia đình, Cẩn là đứa con học hành không đến đầu đến đũa so với anh em, nhưng ngược lại Cẩn là người có bẩm tính thông minh, lanh lẹ, có nhiều mánh khóe và tài vặt, nhiều lúc trở nên thủ đoạn theo kiểu của mấy anh lý trưởng thừa hưởng hoa lợi từ ruộng nhà của những người đàn bà góa bụa. Vì vậy mà Cẩn rất tinh quái trong việc cai trị kẻ dưới trướng bằng lời nói và roi vọt. Khi phật ý là Cẩn sẵn sàng chửi cha chúng nó và xem đó như là một thú vui của một con người quyền thế.
Những người từng có dịp gần gũi với gia đình Cẩn đã kể lại rằng, tuy cục cằn, ngoài những thú vui như câu cá, đá gà, nuôi chim kiểng thậm chí là cưỡi bò chạy lông nhông ngoài phố, ông ấy còn rất thích chơi hoa kiểng và bon sai, đặc biệt là việc thiết kế xây dựng những hòn non bộ ở trong vườn nhà. Con người quái đản này cũng dành nhiều thì giờ để nghiên cứu về các loài hoa, có lẽ vì vậy mà Cẩn đã học được tính nhẫn nại mỗi khi chờ xem hoa quỳnh nở hay đứng nhìn lá vàng rơi rụng mỗi độ heo may về. Cẩn mê hoa đến độ biết chọn loại hoa nào phù hợp với vận mạng của mình, biết uốn ép dáng thế cho cây theo chữ tượng hình ra làm sao.
Lúc hứng khởi, Cẩn thường nói với mấy gia nô rằng chơi hoa thì phải biết thưởng thức mùi hương đúng vào thời khắc cánh hoa từ từ hé mở để tận hưởng cái tinh túy ngọt ngào sảng khoái của thiên nhiên theo kiểu trường phái lão Trang của mấy cha bên Tàu. Nói chung, Cẩn là người đam mê rất nhiều trò tiêu khiển, biết bỏ công sắp đặt trong vườn sao cho phù hợp với không gian phong thủy chung quanh nhà, và đương nhiên những gì Cẩn đã mê thì bằng mọi cách phải tìm cho bằng được, thậm chí nếu cần tung chiêu thủ đoạn để chiếm đoạt cho mình Cẩn cũng chẳng ngại ngần.
Thu vui cua “bao chua mien Trung” Ngo Dinh Can-Hinh-2
Một biệt thự dùng để nghỉ mát của Ngô Đình Cẩn ở thôn Ngũ Tây, Thuỷ An, Tp Huế. 
Mới đây, trong khu vườn của ngôi nhà rường cổ vốn là nơi ngày xưa Cẩn thường đến để nghỉ ngơi thư giãn thuở hoàng kim, nay thuộc sở hữu của vợ chồng ông bà Lê Đình Sự và Lê Thị Oanh có một cây sanh với dáng thế cực kỳ đặc sắc. Gia chủ kể rằng, đây là cây sanh của ông Cẩn đã trồng lúc sinh thời và hòn non bộ nơi đặt cây sanh cũng là một tác phẩm nghệ thuật do chính tay "bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn dựng nên. Chính vì yếu tố lịch sử ấy mà ngày ngày dân chơi cây cảnh vẫn thường ghé qua để kỳ nèo gia đình ông Sự bà Oanh để được mua cây sanh của ông Cẩn.
Ông Sự kể rằng, khách đến hỏi mua cây sanh này ở khắp mọi nơi, có người trong Nam, kẻ ngoài Bắc, có người khi đến hỏi mua cây sanh còn mang theo cả chuyên gia giám định thế cây, dáng cây, rễ cây và tuổi đời của cây. Lúc cao điểm nhất, có người đã trả giá cây sanh cùng với căn nhà cấp 4 tuềnh toàng của vợ chồng ông với giá 14 tỉ đồng thời giá bây giờ. Thế nhưng, ông Sự nói, gia cảnh của tôi bây giờ không lấy gì làm khấm khá, nhưng cây sanh này đã cùng với gia đình tôi buồn vui mấy chục năm trời nên không thể bán nó đi được.
Bà Oanh nói thêm, thôi thì ở đời giàu nghèo cũng là phận số, sau này vợ chồng tôi có qua đời thì tôi tin các con tôi sẽ theo truyền thống gia đình mà chăm nom cây cối trong vườn như chúng tôi đã từng làm trước đó mà thôi…
Về chuyện chiếu chăn, giới tính, Cẩn cũng là một gã quái nhân, những người thân cận, gia nô trong nhà kể rằng, Cẩn là người rất ghét loại con gái nhan sắc, õng a õng ẹo nhưng lại rất ngây ngô chưa biết mùi đời, chưa thông thạo chuyện trai gái gối chăn. Cẩn chỉ đặc biệt thích những người đàn bà luống tuổi, đã có chồng với một hai đứa con, to khỏe, mắt sắc, lông mày rậm, mông nở, rành rẽ chuyện sinh hoạt tình dục. Mỗi khi tìm được hạng người như thế, Cẩn lại kéo ra vườn để "cùng nhau quằn quại" trên những đống rơm cho đến khi chân chồn gối mỏi. Nhưng với Cẩn, chuyện trai gái chỉ đến thế thôi vì Cẩn rất lạ là không thích trói buộc cuộc đời của mình với bất cứ một người đàn bà nào cả...?
Cho đến bây giờ người dân xứ Huế vẫn còn kể cho nhau nghe câu chuyện tình vô luân giữa Ngô Đình Cẩn với một cô gái tên là Thanh Hoàng, con gái của một phú gia giàu có ở thôn Vĩ Dạ. Thanh Hoàng là vợ của một người được cho là con rơi của Ngô Đình Cẩn, sau khi cô này ăn ở với chồng có đến 2 mặt con thì nhân một buổi cô này đến nhà của Cẩn có việc. Nhìn thấy vẻ đẫy đà của Thanh Hoàng, Cẩn đem lòng si mê rồi cho bắt luôn đến ở nhà mình để "phục vụ".
Để cho sự gần gũi với Thanh Hoàng không bị người chồng cản trở, Cẩn đã bằng mọi cách đưa chồng của Thanh Hoàng sang làm việc ở sứ quán VNCH ở châu Âu. Sau mỗi lần bị "bạo chúa miền Trung" ép phải làm chuyện mây mưa đã khiến cho cô gái vốn xuất thân trong một gia đình trâm anh thế phiệt vô cùng tủi hổ, nên đã đôi lần định trầm mình xuống dòng sông An Cựu để quyên sinh.
Biết được, Cẩn đã ngăn chặn và hăm dọa "nếu Hoàng mà tự tử thì ta cũng buồn rầu mà chết, nhưng trước khi chết thì ta giết chết hết cha mẹ và anh em của Hoàng đã…". Vì thế mà Thanh Hoàng phải ngậm đắng nuốt cay hầu hạ những thú vui xác thịt quỷ quái của Ngô Đình Cẩn. Thấy người đẹp âu sầu, Cẩn hạ lệnh cho bọn tay chân cất một tư dinh để nghỉ mát ở vùng Tân Mỹ sát cửa biển Thuận An và một tư dinh ở trên đỉnh núi Bạch Mã để đưa Thanh Hoàng tới đó hú hí…cho thỏa thuê dục vọng đê hèn.
Biết tỏng rằng Cẩn là thằng em trai ngổ ngáo, bất trị, ham chơi, chẳng chịu học hành, nên mỗi khi các anh của Út Cẩn về thăm mẹ già thường hay khuyên răn Cẩn bớt chơi bời mà phải lo học hành để kiếm chút chữ nghĩa lận lưng sau này mới mong khấm khá. Mỗi lần như thế, Cẩn chỉ cười gằn rồi đánh trống lảng sang chuyện khác, rồi tìm cách xăm xê đến bên mẹ già. Bà Anna Phạm Thị Thân là chỗ dựa hiếu để che chắn cho Cẩn trước uy thế của các anh, nên mỗi khi như thế, Cẩn có cớ để kể công với mọi người trong gia đình: "Các anh đi hết. Tui phải lo thờ tự, chăm sóc mợ, thời gian, tiền bạc mô mà học. Nhà ni có mấy anh học cao là đủ. Tui như ri là được rồi. Tui có muốn làm quan mô…".
Nhắc nhở đến thằng em ngang tàng như Cẩn thì đến mấy ông như ông Thục, ông Diệm, ông Nhu đều cùng chung một nỗi bực mình, nhưng cũng phải nhắc vì đó là bổn phận làm anh trong gia đình của họ. Cứ mỗi lần về thăm, mấy người anh dặn dò Út Cẩn phải chăm lo hương hỏa đôi điều, rồi họ lại lên đường ra đi biền biệt, mỗi người theo một chí hướng, một con đường riêng… Vì sau khi ông Khả qua đời một thời gian dài, cả gia tộc họ Ngô ở Phủ Cam lâm vào cảnh khó khăn về kinh tế, thất sủng về chính trị, khổ sở trên con đường công danh sự nghiệp…

Vụ xử bắn “bạo chúa” Ngô Đình Cẩn ở khám Chí Hòa

Vụ xử bắn “bạo chúa” Ngô Đình Cẩn ở khám Chí Hòa
Vụ thứ nhất là xử bắn Ngô Đình Cẩn, em ruột Ngô Đình Diệm và vụ thứ hai là xử bắn anh Nguyễn Văn Trỗi.

“Cuộc mặc cả triệu đô” trước giờ hành quyết Ngô Đình Cẩn

“Cuộc mặc cả triệu đô” trước giờ hành quyết Ngô Đình Cẩn
Ngày hôm sau, đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã được chuyển đến tướng Dương Văn Minh là Quốc trưởng. Rồi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá cho tử tội Ngô Đình Cẩn với lý do là Cẩn đang bị bệnh rất nặng, ngày sống chỉ đếm được trên đầu ngón tay cho nên không cần thiết phải hành quyết Cẩn. Nhưng tất cả đều bị Dương Văn Minh bác thẳng thừng.

Sự thật về một viên cai ngục ở khám Chí Hoà

Sự thật về một viên cai ngục ở khám Chí Hoà
Ngón võ thường dùng của Vệ là dùng lựu đạn cay ném vào buồng giam, cho tù nhân sặc sụa vì hơi cay, thở không được, rồi mới xua quân vào đánh. Không chỉ tàn ác với các tù chính trị mà Nguyễn Văn Vệ cũng nổi tiếng về trò kiếm tiền từ buôn bán ma túy, cung cấp cho đám con nghiện bị bắt giam...

Vào buổi sáng ngày 2/6/1975, Trại giam Chí Hòa được nhận một người đặc biệt, đó là trung tá ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Vệ, từng hai “nhiệm kỳ” làm quản đốc Khám Chí Hòa. Khi cán bộ quản giáo dẫn Vệ về buồng giam chung với nhiều sĩ quan chế độ cũ (mà tất cả số này đều là những kẻ đã gây nhiều tội ác với nhân dân) thì Vệ đi qua buồng giam nào, nơi ấy xôn xao hẳn lên...

Tháp canh bên ngoài "lò bát quái".
 Tháp canh bên ngoài "lò bát quái".

Đám tù thường phạm, trong đó có không ít người từng bị giam ở Chí Hòa trong những năm trước la ó, đòi “đập chết thằng ác ôn”. Một phạm nhân tên là Lê Ngọc Lâm, can án tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép và giết người, bị Tòa án Sài Gòn cũ kết án 15 năm khổ sai, từng ở Chí Hòa trong những năm 70, và khi vào trại còn giết... thêm 4 phạm nhân nữa thì lồng lộn chửi rủa Nguyễn Văn Vệ và van lạy quản giáo... “Cán bộ cho tôi ra... Tôi đã giết 5 người rồi, thêm thằng này nữa là 6, rồi cán bộ bắn tôi ngay cũng được”.

Cũng phải nói thêm Lê Ngọc Lâm hay còn có biệt danh là Lâm “chín ngón” là tay giang hồ có số má ở miền Nam thời đó. Xung quanh việc Lâm cùng đồng bọn giết 4 tên giang hồ khác trong Trại giam Chí Hòa cũng có nhiều giai thoại. Số là khi ở ngoài xã hội, Lâm “chín ngón” và 4 gã kia có ân oán với nhau. Để trả thù, Lâm cố tình gây án rồi vào Chí Hòa và hối lộ cai ngục nhằm được giam chung với những “tử thù” rồi thanh toán đối thủ ngay trong nhà giam.

Chính vì “thành tích “bất hảo đó mà Lâm “chín ngón” được giới giang hồ vị nể, tôn làm đại ca. Lâm “chín ngón”, Đại Ca Thay là những “tên tuổi lớn” trong giới giang hồ thời chế độ Thiệu.

Thấy Lâm “chín ngón” hô hào, đám tù thường phạm gầm lên, chực phá chấn song để xông ra “ăn thua” với Nguyễn Văn Vệ. Trong ký ức của đám tù thường phạm có “thâm niên” ở Chí Hòa, họ không thể nào quên được vào một ngày cuối năm 1972, Nguyễn Văn Vệ được đưa từ Côn Đảo về, với nhiệm vụ là “lập lại trật tự ở Trung tâm Cải huấn Chí Hòa”.

Vừa nhận nhiệm vụ được 3 hôm, thì ngày 10/12, Vệ đích thân dẫn 100 cảnh sát dã chiến trang bị lựu đạn cay, dùi cui, gậy tre, mặt nạ... xông vào đàn áp tù chính trị trong các buồng giam. Cả bọn ác ôn như bầy thú dữ lao vào đánh đập không chút ghê tay đối với anh em tù chính trị. Thấy cảnh đàn áp quá dã man, số tù thường phạm cũng la ó phản đối, và thế là Nguyễn Văn Vệ lại hô đám cảnh sát “uýnh chết mẹ chúng nó đi”. Trận đòn ấy làm cho Lâm “chín ngón” bị ốm rệt cả tháng...

Sau đợt “lập lại trật tự” có quy mô lớn ấy, cứ mỗi tháng đôi ba lần, Vệ lại tổ chức đàn áp từng khu vực. Mà ngón võ thường dùng của Vệ là dùng lựu đạn cay ném vào buồng giam, cho tù nhân sặc sụa vì hơi cay, thở không được, rồi mới xua quân vào đánh. (Sau này, Lâm “chín ngón” cũng đã tố cáo toàn bộ những tội ác của Nguyễn Văn Vệ đối với tù chính trị cho Ban quản giáo Trại giam Chí Hòa). Nhưng không chỉ tàn ác với các tù chính trị mà Nguyễn Văn Vệ cũng nổi tiếng về trò kiếm tiền từ buôn bán ma túy, cung cấp cho đám con nghiện bị bắt giam với giá cao hơn bên ngoài từ 3 đến 5 lần.

Trong hồ sơ lưu giữ thì từ năm 1954 đến 1975, Khám Chí Hòa đã trải qua 10 đời cai ngục. Đó là: Gia (không rõ họ); Nguyễn Văn Vệ; Lê Quang Nhơn; Trần Văn Đắc; Trung tá Phạm Văn Luyện; thiếu tá Sáu; trung tá Lại Nguyên Tấn; trung tá Đức (không rõ họ); Bùi Văn Tâm và đại tá Phạm Văn Hải.

Trong số này, chỉ có 2 người làm ở đây lâu nhất đó là trung tá Luyện và Nguyễn Văn Vệ. Trung tá Luyện làm quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa lần thứ nhất là từ năm 1962 đến hết năm 1963, lần thứ hai là từ năm 1965 đến hết năm 1968, còn Nguyễn Văn Vệ lần thứ nhất làm từ năm 1956 đến năm 1960, lần thứ hai từ năm 1972 đến cuối năm 1973. Trong 10 viên cai ngục thì khét tiếng nhất chỉ có Nguyễn Văn Vệ.

Tại Trung tâm Quản lý hồ sơ nghiệp vụ của Tổng cục An ninh, các cán bộ làm công tác tra cứu hồ sơ đã lắc đầu thở dài khi nhìn tờ phiếu tôi đưa xin tra cứu vẻn vẹn có mấy chữ: Nguyễn Văn Vệ... Theo thông lệ, muốn tra cứu hồ sơ một con người thì phải có đầy đủ các thông số như họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ, số lính hoặc số phù hiệu cảnh sát; bố mẹ, vợ con... Tuy vậy sau 2 ngày tra cứu vất vả trong hàng ngàn người có tên Nguyễn Văn Vệ thì các anh chị cũng tìm thấy cho tôi hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ là quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa.

Một góc khám Chí Hoà hôm nay và viên cai ngục Nguyễn Văn Vệ.
 Một góc khám Chí Hoà hôm nay và viên cai ngục Nguyễn Văn Vệ.

Nhìn tập hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ, tôi rất ngạc nhiên bởi nó có độ dày khủng khiếp: khoảng hơn 400 trang. Hồ sơ của Nguyễn Văn Vệ được lưu giữ cực kỳ tỉ mỉ, trong đó có từ những tấm giấy khai sinh ghi rõ Nguyễn Văn Vệ sinh ngày 12/7/1922; bằng tốt nghiệp bậc Thành chung rồi các loại quyết định nâng lương, đề bạt khen thưởng, thuyên chuyển công tác; các phiếu nhận xét về năng lực của Nguyễn Văn Vệ trong suốt gần 35 năm phục vụ từ chính quyền của Bảo Đại đến thời kỳ sau này. Rồi các bản tự khai của Nguyễn Văn Vệ trong thời gian đi học tập cải tạo và trớ trêu thay Nguyễn Văn Vệ, từng 2 lần làm quản đốc Khám Chí Hòa, 1 lần làm quản đốc nhà tù Côn Đảo lại quay trở lại Khám Chí Hòa từ ngày 2/6/1975 cho đến ngày 13/10/1982, tất nhiên lần này không phải với vai trò quản đốc mà với tư cách phạm nhân...

Nguyễn Văn Vệ sinh ra trong một gia đình đông anh em, là con út. Cha chết khi Vệ mới 11 tuổi. Vệ được đi học hết bậc trung học và giỏi tiếng Anh, Pháp. Tháng 8/1945, Nguyễn Văn Vệ hòa mình vào dòng người đi cướp chính quyền và tham gia “Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ”. Do có học nên Vệ được chọn làm nhân viên thư ký của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Nhưng đi theo Cách mạng chỉ được có 6 tháng, Vệ chịu không nổi và bỏ về nhà.

Suốt từ giữa năm 1946 đến 1952, Vệ làm nhân viên Công an ở Sóc Trăng, Châu Đốc. Sự mẫn cán và tính cứng rắn, thậm chí độc ác của Vệ đã được chính quyền phản động thời đó ghi nhận. Chính vì vậy đến năm 1953, Vệ đã là Trưởng ty Công an Bạc Liêu. Nhận xét trong quá trình công tác của Nguyễn Văn Vệ khi làm Trưởng ty Công an là: “Có thành tích triệt hạ những người kháng chiến tại Bạc Liêu...”. Không hiểu rằng, để có được những dòng nhận xét ấy Vệ đã sát hại bao nhiêu cán bộ và bao nhiêu người dân được hắn khép cho tội theo Việt Minh.

Đến năm 1954, thì Vệ gia nhập quân đội Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm. Trong bản tự thuật lý lịch của mình thời đó, Vệ đã tự nhận như sau: “Sống bình dị, vui vẻ, cởi mở với mọi người. Nhược điểm là tính nóng”. Năm 1956, Vệ được đưa về làm quản đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa thuộc Nha tổng quản đốc các trung tâm cải huấn - Bộ Nội vụ và được phong hàm thiếu tá.

Trong phiếu tính điểm sĩ quan ngày 22/8/1958 của Nguyễn Văn Vệ, có ghi: “Thiếu tá Nguyễn Văn Vệ là sĩ quan mẫn cán, tận tụy với nhiệm vụ, có những nhận xét chính xác về tình hình chung của cơ sở hành chính và Trung tâm Cải huấn Chí Hòa. Đã áp dụng những biện pháp mạnh mẽ và hữu hiệu để giữ gìn trật tự an ninh”. Về tư cách đạo đức tác phong thì: “Nêu cao tinh thần kỷ luật, có tác phong đúng đắn và hạnh kiểm tốt trong khi thi hành chức vụ. “Chấm điểm”, Vệ được 19,5 trên tổng số điểm là 20.

Người nào có mức điểm từ 18 trở lên thì được coi là sĩ quan ưu tú. Trong phiếu nhận xét gồm các mục: sức khỏe, y phục, tinh thần kỷ luật, nhân cách, tính nết, hạnh kiểm, can đảm, chính trực, kiến thức tổng quát, thông minh, trí nhớ, trí xét đoán thì tất cả đều được đánh giá là tốt. Khi làm quản đốc Chí Hòa, Vệ được chấm 19/20 điểm và được đánh giá là sĩ quan siêng năng, tận tâm, rất đáng được khích lệ và tưởng thưởng kịp thời.

Trong thời kỳ từ năm 1956 đến 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm mở các chiến dịch đàn áp khốc liệt những người kháng chiến, vì thế Khám Chí Hòa luôn chật ních tù chính trị. Và tất nhiên, những cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống chào cờ, chống tra tấn, nhục hình liên tục nổ ra. Để trừng phạt những người “cứng đầu”, Nguyễn Văn Vệ cho lập hẳn một khu kỷ luật, mà thực chất là nơi chuyên tra tấn tù nhân. Khu này nằm gần sát nơi mà sau này là pháp trường xử bắn anh Nguyễn Văn Trỗi.

Trong khu này có hai phòng khủng khiếp nhất, được người tù gọi là “phòng điện ảnh” và “phòng truyền hình”. Mỗi phòng diện tích chỉ khoảng 6m2, và vẫn sử dụng những chiếc còng có từ... thời Nhật. Tù nhân bị đưa vào đây buộc phải cởi hết quần áo, còng chân chung vào một thanh sắt dài và mặc cho muỗi đốt, rệp cắn mà không tài nào đuổi được, gãi được. Vệ đã cho lắp một loại còng mới của Mỹ.

Loại còng này quái gở ở mức là nếu người tù càng cựa quậy thì còng lại càng xiết chặt hơn. Sở dĩ có tên “điện ảnh, truyền hình” như vậy là khi người tù bị đưa vào đây, chúng đánh đập tra tấn đến muốn vỡ tung đầu óc, nhìn cái gì cũng thấy nhòe nhoẹt như xem phim đến đoạn cuối thay cuốn, hoặc màn hình bị nhiễu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng phòng giam này quét hắc ín đen kịt, khi đóng cửa lại là “tối như phòng “chiếu phim”, nên được gọi là “phòng điện ảnh”.

Tại Chí Hòa, dưới thời Nguyễn Văn Vệ, bọn cai ngục chuyên tra tấn tù nhân đã nâng mức tra tấn lên hàng “nghệ thuật”. Chúng tra khảo, đánh đập người tù bất kể là ngày hay đêm và đặt tên cho các ngón đòn là “đi tàu lặn” (dìm đầu người tù vào thùng phuy nước, cho gần chết ngạt rồi lôi ra, đạp lên bụng cho phọt nước); đi máy bay (treo người tù lên rồi hai tên đứng hai bên đấm, người tù văng từ bên nọ sang bên kia); “đánh tứ giác” (bốn tên đứng bốn góc và đánh người tù văng từ góc này sang góc khác)...

Các hình thức tra tấn đối với tù chính trị của bọn ác ôn Khám Chí Hòa thời này có những chuyện vượt xa sự tưởng tượng. Khám Chí Hòa có số lượng tù nhân đông nhất là vào năm 1972-1973. Các phòng giam lớn của Chí Hòa có diện tích gần 50 m2 nhưng luôn nhét khoảng 100 tù nhân, thậm chí có phòng nhét tới 180 người. Có 40 trẻ em bị bắt nhốt vào Chí Hòa do bị nghi là “Cộng sản”. Nguyễn Văn Vệ cho nhốt chung các trẻ em này vào với tù thường phạm, và thế là môi trường nhà tù đã biến các em trở thành những kẻ du đãng, giang hồ.

Nguyễn Văn Vệ trong thời gian làm chúa ngục Côn Đảo đã có “thành tích” đặc biệt là thẳng tay đàn áp những người tù chính trị. Dưới ách “cai trị” của Nguyễn Văn Vệ suốt từ năm 1965 đến 1968, tù nhân trên Côn Đảo đã phải chịu qua những ngày tháng khốc liệt nhất. Không thể tính được có bao nhiêu người đã chết dưới bàn tay của Nguyễn Văn Vệ. Và sự tàn ác này đã được chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận.

Thẻ căn cước của Nguyễn Văn Vệ.
 Thẻ căn cước của Nguyễn Văn Vệ.

Ngày 16/5/1968, Văn phòng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, có văn bản gửi Tổng trưởng Quốc vụ Sài Gòn về việc thăng cấp trung tá cho thiếu tá Nguyễn Văn Vệ. Số quân 42A-101-426. Văn bản có đoạn viết: “Trong dịp đi kinh lý tại Côn Sơn, thủ tướng chính phủ nhận thấy Nguyễn Văn Vệ là chỉ huy ưu tú, hoạt động đảm đang, đầy đủ tinh thần kỷ luật và trách nhiệm... yêu cầu đặc cách, thăng bậc trung tá cho Nguyễn Văn Vệ”. Văn bản này do luật sư Nguyễn Văn Lộc thừa lệnh thủ tướng ký. Đây là một trường hợp đặc biệt vì chưa bao giờ có chuyện thủ tướng yêu cầu Tổng trưởng Quốc phòng thăng hàm cho một sĩ quan.

Thế rồi, đến năm 1973, Thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Nội vụ Trần Thiện Khiêm lại có công văn gửi Tổng trưởng Quốc phòng yêu cầu: “Trong hai lần đảm nhiệm trọng trách tương đối khó khăn, tế nhị và phức tạp, trung tá Vệ luôn được xác nhận có biệt tài, có sáng kiến trong vấn đề cải huấn, duy trì hữu hiệu trật tự tại Công Sơn, là sĩ quan có tinh thần kỷ luật, đảm đang, mẫn cán tận tâm với chức vụ. Đề nghị thăng cấp đại tá cho trung tá Nguyễn Văn Vệ...”. Tuy nhiên, việc thăng cấp này không được thực hiện bởi vì Vệ bị An ninh quân đội nghi là người của thủ tướng, cho nên năm 1974, Vệ được giải ngũ về nhà và buôn bán chất đốt.

Trong bản tự nhận xét của mình sau này, Vệ tự nhận như sau: “Khi làm trưởng ty Công an Bạc Liêu tôi đã chống đối cách mạng khi bắt bớ những chiến sĩ hoạt động chống lại ngụy quyền. Khi làm Giám đốc Trung tâm Cải huấn Chí Hòa cũng như Côn Sơn, tôi đã làm đời sống chính trị phạm đã cực khổ càng thêm cực khổ xuyên qua những hình phạt biệt giam, đàn áp khủng bố bằng hạn chế đi đứng dùng lựu đạn cay gây thương tích cho chính trị phạm, gián tiếp chịu trách nhiệm về những cái chết, về bệnh tật của chính trị phạm. Không xúc động trước cảnh đau khổ của chính trị phạm...”.

Còn theo đánh giá của Cơ quan An ninh thì: “Nguyễn Văn Vệ là tên chúa đắc lực của địch có nhiều tội ác trong cai quản, đàn áp, đánh giết tù nhân chính trị đồng thời rất gian ác xảo quyệt trong việc dùng mạng lưới chìm để theo dõi giám sát tù chính trị”.

TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU



Đọc nhiều nhất

Tin mới