Sự thực Trương Phi: Văn võ song toàn, mỹ nam tử

Không chỉ là nhà thư pháp viết chữ rất đẹp, vẻ bề ngoài của Trương Phi cũng không hề dữ tợn, luộm thuộm như hình ảnh lâu nay người ta vẫn nghĩ.

Trong suy nghĩ của mọi người lâu nay, Trương Phi là một chiến tướng dũng mãnh, can đảm nhưng ít mưu mẹo, nên người ta thường gọi Trương Phi là kẻ “hữu dũng vô mưu” một cách mỉa mai và khinh miệt. Tuy nhiên, những ghi chép từ trong sử liệu lại hoàn toàn không giống như những gì người ta nghĩ...
Văn võ song toàn
Sách “Tam Quốc Chí tập giải” và nhiều sử liệu đáng tin cậy khác (không phải là “Tam Quốc diễn nghĩa, vì đây là tiểu thuyết “ba thực bảy hư” của La Quán Trung) đều miêu tả Trương Phi là một Nho tướng, không những giỏi võ mà còn biết làm thơ, vẽ tranh. Thậm chí, nhiều sử liệu còn khẳng định, Trương Phi là một thư pháp gia có tiếng thời bấy giờ.
Sách “Tam Quốc Chí” của sử gia Trần Thọ chép: Năm đó, Trương Phi lấy ít thắng nhiều đánh bại danh tướng của Tào Tháo là Trương Dương.
Trương Phi trên phim ảnh.
 Trương Phi trên phim ảnh.
Để ăn mừng chiến thắng, Trương Phi đã lấy đá làm giấy, lấy cây bát xà mâu nổi tiếng của mình làm bút viết lên đá bài “Lập Mã Minh” vừa để ghi nhớ chiến công của mình vừa để miệt thị quân Tào.
Trong bài này có đoạn: “Tướng quân nhà Hán là Trương Phi dẫn tinh binh cả vạn người đánh bại kẻ cầm đầu bọn phản loạn là Trương Dương ở Bát Mông nên lập bia này”.
Vậy tấm bia do chính tay Trương Phi viết bằng cây xà mâu của mình giờ này lưu lạc nơi nào. Theo nghiên cứu của các sử gia thì ở thành phố Lang Trung, Tứ Xuyên hiện nay vẫn còn một tấm bia như vậy.
Nghiên cứu tấm bia này, các sử gia phát hiện ra rằng, hóa ra, bản thân Trương Phi trong lịch sử đã là một Nho tướng, vì vậy, Trương Phi dũng mãnh chứ không hề thô lỗ.
Hơn nữa, Trương Phi còn là một người viết chữ đẹp nổi tiếng lúc bấy giờ, được coi là một trong những đại biểu của trường phái Bát Phân, một trường phái viết chữ rất thịnh hành thời bấy giờ.
Người Trung Quốc xưa có câu, nhìn chữ có thể biết được tính cách con người.
Một người viết chữ đẹp ắt hẳn phải là một người rất kiên trì nhẫn nại, một người như vậy không thể nào lại thô lỗ, hành động không bao giờ có suy nghĩ như những gì La Quán Trung miêu tả về Trương Phi trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.
Những ghi chép của sử liệu về khả năng viết chữ của Trương Phi tới nay vẫn có thể tìm thấy rất nhiều. Sách “Thục trung danh thắng ký” có ghi chép rất rõ câu chuyện về Trương Phi trên núi Bát Mông, huyện Lương, phủ Thuận Khánh.
Nhiều người cho rằng, tác giả của cuốn sách này là Tào Học, một nhà văn hiến học đồng thời cũng là chức Hữu tham chính ở Tứ Xuyên.
Họ Tào là người vừa có địa vị về văn hóa lẫn chính trị, do vậy, những ghi chép của ông ta có thể tin cậy được.
Đến thời nhà Thanh, trong tác phẩm “Cảo bản Tam Quốc chí bổ sung” của tác giả tên là Triệu Nhất Thanh có dẫn một đoạn từ sách “Phương dư kỷ yếu” cũng nói: “Bát Môn Sơn “có một phiến đá bên trên có chữ chép: Tướng quân nhà Hán là Trương Phi dẫn tinh binh cả vạn người đánh bại kẻ cầm đầu bọn phản loạn là Trương Dương ở Bát Mông nên lập bia này”.
Việc rất nhiều sách đều ghi lại câu chuyện Trương Phi dùng xà mâu viết chữ trên đá ở núi Bát Mông chứng tỏ đây là sự việc có thể đã xảy ra thực. Điều đó cũng có nghĩa, rất có thể Trương Phi thực sự là một thi pháp gia có hạng vào thời bấy giờ.
Trên thực tế, ghi chép sớm nhất về khả năng viết chữ đẹp của Trương Phi được ghi nhận là trong sách “Đao Kiếm lục” của Lục Hoành Ảnh người thời Nam Bắc Triều.
Trong sách này, Lục Hoành Ảnh có viết: “Khi Trương Phi mới nhận chức Tân Đình Hầu, tự mình lệnh cho thờ rèn lấy sắt ở Xích Sơn thành một thành đao.
Có bài ký viết: Tân Đình Hầu, tướng quân của Thục”. Sau này Trương Phi bị giết, thanh đao này được người ta đưa về nước Ngô”.
Tác phẩm “Tân Đình Hầu Đao ký” mà Lục Hoành Ảnh nhắc tới trong cuốn sách của mình chính là một tác phẩm thư pháp của Trương Phi.
Đến thời nhà Minh, trong sách “Đan diên tổng lục” cũng có một đoạn ghi chép về khả năng thư pháp của Trương Phi: “Ở Bồi Lăng có một bức chữ khắc Trương Phi điêu đấu. Chữ viết trong bài này rất được chăm chút dụng công, đó chính là chữ viết của Trương Phi”.
Ngô Trấn, một nhà thơ đời nhà Nguyên còn viết một bài thơ có tên: “Trương Dực Đức từ”, trong đó có viết: “Quan hầu phúng tả thị, xa kỵ cánh công thư. Văn võ thú tuy biệt, cổ nhân thường hữu dư, hoành mâu tư uyển lực, Dao Tượng khủng nan như”.
Ý tứ của bài thơ này của Ngô Trấn là ca ngợi tài năng viết chữ của Trương Phi, cho rằng, với khả năng văn võ song toàn như Trương Phi thì hai đại thư pháp gia của thời Tam Quốc là Chung Dao của nước Ngụy và Hoàng Tượng của nước Ngô cũng không sánh kịp.
Vào thời cổ đại, thư (viết chữ) và họa (vẽ tranh) không có sự phân biệt. Vì vậy, Trương Phi không chỉ có những tác phẩm thư pháp rất đẹp mà còn rất thích vẽ tranh, đặc biệt là vẽ người đẹp.
Theo sách “Họa túy nguyên thuyên” của Trách Nhĩ Xương người thời Minh có đoạn chép: “Trương Phi… thích vẽ người đẹp, giỏi viết thảo thư (một thể loại thư pháp, rất khó học và khó viết)”.
Vì vậy, có thể nói rằng, không chỉ có tài năng, Trương Phi còn là một người rất lãng mạn. Điều đáng tiếc là, cho tới nay không còn bất cứ bút tích nào của vị tướng quân lừng danh họ Trương còn lưu lại cho hậu thế, nếu không, Trương Phi đã không chỉ được nhắc tới như một mãnh tướng mà thôi.
Mỹ nam tử
Không chỉ là một nhà thư pháp viết chữ rất đẹp, vẻ bề ngoài của Trương Phi cũng không hề dữ tợn và luộm thuộm như hình ảnh lâu nay người ta vẫn nghĩ về vị mãnh tướng “hữu dũng vô mưu” này.
Điều khiến người ta buộc phải suy nghĩ lại về dáng vẻ bề ngoài của vị dũng tướng Trương Phi chính là phát hiện khảo cổ vào năm 2004 tại di tích doanh trại Trương Phi ở Triển Dương, Tứ Xuyên. Tại đây, chiếc tượng đầu người bằng đá được các nhà khảo cổ phát hiện đã khiến người ta phải suy nghĩ lại về chân dung của Trương Phi.
Tranh minh họa Trương Phi.
Tranh minh họa Trương Phi. 
Theo các nhà sử học, bức tượng tìm được tại Tứ Xuyên cao khoảng 4 mét, rộng hơn 4 mét. Truyền thuyết của các cư dân địa phương nói rằng đây là bức tượng mà người thời Đường làm để tưởng niệm Trương Phi một trong “ngũ hổ tướng” của nước Thục.
Điều đáng nói là, bức tượng Trương Phi này lại hoàn toàn khác với hình ảnh Trương Phi trong “Tam Quốc diễn nghĩa” và cả trong tưởng tượng của mọi người lâu nay: Tai dài môi dày, mặt không hề có một cọng râu.
Các chuyên gia khảo cổ hàng đầu của Trung Quốc đã tiến hành giám định kỹ càng đối bức tượng này.
Kết quả cho thấy, bức tượng xác thực được tạo ra vào đời nhà Đường. Song việc bức tượng này có phải là tượng của Trương Phi hay không thì các nhà khảo cổ không thể đưa ra câu trả lời xác quyết được.
Tuy nhiên, các nhà sử học phải thừa nhận rằng, việc phát hiện ra bức tượng này khiến người ta phải suy nghĩ lại về cách hình dung tướng mạo của Trương Phi lâu nay.
Trong cuốn sử “Tam Quốc chí” của Trần Thọ, tướng mạo của Lưu Bị và Quan Vũ đều được tác giả miêu tả rất kỹ lưỡng, tuy nhiên, Trương Phi thì tuyệt nhiên không có một chữ nào miêu tả về tướng mạo. Điều này không thể không nói là một chuyện kỳ lạ.
Cũng vì Trần Thọ không hề miêu tả hình dáng bên ngoài của Trương Phi, nên La Quán Trung khi viết “Tam Quốc diễn nghĩa” tha hồ phóng bút mà tưởng tượng.
Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung đã không tiếc những lời khoa trương khi miêu tả chân dung của Trương Phi: “Thân cao 8 xích, đầu báo, mắt tròn, cằm yến, râu hổ, tiếng nói như sấm, thế đi như ngựa phi”.
Từ “Tam Quốc diễn nghĩa” của tác giả họ La khi được chuyển sang các vở kịch, gương mặt của Trương Phi ngoài các đặc điểm trên còn được thêm một khuôn mặt đen rất hung tợn.
Điều này hoàn toàn là vì nhu cầu sáng tạo của môn nghệ thuật kịch. Tuy nhiên, sự phổ biến của chúng lại khiến người đời sau coi đó là chuẩn mực về chân dung của Trương Phi.
Như vậy, theo những sử liệu cũng như phát hiện khảo cổ thì Trương Phi rõ ràng không phải là một người có tướng mạo xấu xí, cũng chẳng phải là kẻ râu ria xồm xoàm, ăn nói lỗ mãng như người ta vẫn tưởng tượng.
Không những vậy, nhiều người còn suy đoán rằng, Trương Phi còn là một mỹ nam tử, mặt mũi khôi ngô, sáng sủa. Bằng chứng là, Trương Phi có hai người con gái thì cả hai đều được gả cho hậu chủ Lưu Thiện, con trai của Lưu Bị.
Có thể ngồi lên ngôi mẫu nghi thiên hạ, trong một thể chế khắt khe như thời phong kiến thì chắc chắn người con gái đó không phải là giai nhân tuyệt sắc thì cũng không thể xấu xí được.
Cũng vì thế, nhiều người suy đoán rằng, là cha của hai cô con gái đều được tuyển làm hậu phi, tướng mạo của Trương Phi chắc chắn không đến nỗi nào.
Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có bất cứ sử liệu nào có thể xác minh được, dung mạo của Trương Phi giống như bức tượng tìm thấy ở Tứ Xuyên hay giống như những gì tác giả La Quán Trung đã miêu tả?

Nỗi oan ngàn năm của “chiến thần” Lã Bố

Sau khi đọc xong “Tam Quốc diễn nghĩa”, với nhiều người, ấn tượng sâu đậm nhất về “chiến thần” Lã Bố có lẽ là một kẻ hữu dũng vô mưu, trở mặt như trở bàn tay, chỉ biết đến lợi ích bản thân, không có nghĩa khí lại quỵ lụy nhan sắc, để đàn bà sai khiến… Nói chung, ngoài sức vóc thuộc loại “vô địch thiên hạ”, Lã Bố chẳng được mấy ai khen ngợi. Tuy nhiên, nếu như tìm đọc chính sử, người ta sẽ thấy rằng Lã Bố không phải là một kẻ thất phu và tiểu nhân đến như vậy…
Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quận Ngũ Nguyên. Sách “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ giới thiệu về Lã Bố là người “kiêu dũng, giỏi võ nổi tiếng đất Tính Châu (Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc)”.
Điều này có lẽ chẳng cần phải nói nhiều, bởi lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên người ta gọi Lã Bố là “chiến thần”. Tuy nhiên, đoạn mà tác giả “Tam Quốc Chí” viết ngay sau đó mới quan trọng: “Quan thích sử (Tính Châu) Đinh Nguyên phong cho Lã Bố là kỵ đô úy.
Khi đóng quân ở Hà Nội đã giao cho Bố chức chủ bạ, coi như một tay chân thân tín”. Đây chính là nội dung đã bị các nhà tiểu thuyết vô tình hoặc cố ý “bỏ quên”, đặc biệt là công việc “chủ bạ” mà Lã Bố được Đinh Nguyên giao phó.
Vào thời nhà Hán, chức chủ bạ là chức quan quản các việc lương thảo, công văn thư tín trong quân đội, là một chức quan văn thuần túy, công việc phải xử lý cũng rất vụn vặt. Hơn nữa, khi Lã Bố làm chức chủ bạ, được Đinh Nguyên coi như người thân tín, do vậy có thể thấy rằng, Lã Bố làm công việc của một chủ bạ không đến nỗi tệ.
Từ đó, có thể nói rằng, Lã Bố tuyết đối không phải là một kẻ ít học, hữu dũng vô mưu nhưng La Quán Trung đã mô tả trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Ngược lại, với vai trò của một chủ bạ, nếu nói theo cách hiện đại thì Lã Bố cũng là một “phần tử trí thức”, được ăn học đàng hoàng.
Sau khi Linh Đế băng hà, Đại tướng quân Hà Tiến cùng với Tư lệ hiệu úy Viên Thiệu bàn tính diệt trừ hoạn quan. Sau khi bàn tính, Hà Tiến cho triệu Đổng Trác mang quân vào kinh. Đinh Nguyên và Lã Bố cũng được lệnh “mang binh mã tới Lạc Dương, cùng với Hà Tiến giết bọn hoạn quan”.

Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quân Ngũ Nguyên.
 Lã Bố tự là Phụng Tiên, là người đất Cửu Nguyên, quân Ngũ Nguyên.

Đinh Nguyên được phong làm chức “chấp kim ngô”. Chấp kim ngô là chức vị tương đương với chức tư lệnh cảnh vệ thủ đô hiện nay. Tuy nhiên, kết quả sự việc thất bại, Hà Tiến bị hoạn quan giết chết, Lạc Dương đại loạn.
Lúc đó, Đổng Trác trên đường mang quân về Lạc Dương, nghe tin Hán Thiếu Đế và em là Lưu Hiệp đã trốn ra khỏi cung, đang ở Bắc Mang bèn mang quân tới đón rồi đưa về cung. Từ đó, Đổng Trác bắt đầu lộng quyền.
Sử chép, để củng cố quyền lực, Trác buộc phải tiêu diệt những kẻ có thế lực trong triều đình. Một trong số đó chính là Đinh Nguyên. Trác thấy Lã Bố được Đinh Nguyên tin cẩn, bèn mật lệnh cho Lã Bố giết Nguyên. Bố chém đầu Nguyên dâng cho Trác, Trác phong bố làm kỵ đô úy.
Trong sử sách chỉ chép đơn giản như vậy, tuy nhiên, tới “Tam Quốc diễn nghĩa” lại nói rằng, Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên nhưng sau vì tham vàng bạc châu báu và ngựa xích thố nên mới theo Đổng Trác.
Kỳ thực, trong sử sách, chưa ai thấy nhắc tới việc Lã Bố là con nuôi của Đinh Nguyên hơn nữa cũng không có chuyện Trác dùng vàng bạc mua chuộc Lã Bố. Lúc bấy giờ Đổng Trác là tiền tướng quân, được phong hầu lại kiêm cả châu mục.
Luận về địa vị, Trác ở vị trí cao hơn hẳn so với chức châp kim ngô của Đinh Nguyên. Với địa vị ấy, nếu như Đổng Trác ra lệnh cho Lã Bố giết Đinh Nguyên thì Bố không có cách nào từ chối. Bởi lẽ, Bố không phải là người nhà của Đinh Nguyên mà là một quan lại nhà Hán.
Thêm nữa, lúc bấy giờ Đổng Trác vừa có công hộ giá, lại đang nắm sinh mạng của hoàng đế trong tay, một khi Đổng Trác nói rằng, giết Đinh Nguyên là chiếu chỉ của thánh thượng thì việc Lã Bố có muốn hay không không còn quan trọng nữa.
Ngoài ra còn một điểm rất quan trọng khác mà nhiều người thường bỏ quên, đó là vào thời kỳ vào kinh, Đổng Trác nổi tiếng là một “hiền thần”, hết lòng vì dân, vì nước.
Ngay khi vừa vào cung, Đổng Trác đã giới thiệu rất nhiều danh sĩ nổi tiếng trong thiên hạ giữ những chức vị cao trong triều đình còn bản thân thuộc hạ của mình, Trác đều chỉ phong cho chức vụ rất thấp. Một người biết chuộng hiền tài như vậy, đương nhiên, Lã Bố không khỏi không hy vọng sẽ được Trác trọng dụng mà thăng tiến.
Sau này, Vương Doãn và Tôn Thụy bày mưu để Lã Bố giết Đổng Trác là vì mâu thuẫn giữa Trác và Bố, tuy nhiên, mâu thuẫn đó không hề bắt nguồn từ Điêu Thuyền như những gì sách “Tam Quốc diễn nghĩa” đã mô tả.
Sử chép, “Trác gặp người khác thường không giữ lễ, sợ có người mưu hại mình, vì thế khi đi đâu đều sai Bố làm hộ vệ. Tuy nhiên, Trác tính nóng nảy lại hẹp hòi, nên không nghĩ trước sau. Có lần vì chuyện nhỏ mà cầm kích lao về phía Bố.
Bố nhanh nhẹn tránh được, sau đó tạ lỗi với Trác, Trác cũng cho qua. Từ đó, Bố âm thầm oán ận Trác. Trác thường xuyên sai Bố vào phủ canh giữ, Bố đã tư thông với một tì nữ trong phủ của Trác. Bố luôn sợ bị phát giác nên luôn lo lắng”.
Cũng vì Bố âm thầm oán hận Trác, lại thêm luôn trong tâm trạng lo sợ bị Trác phát hiện chuyện tư thông của mình nên Vương Doãn và Tôn Thụy mới lợi dụng Bố để giết Trác.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác không giống với Bố và Đinh Nguyên trước kia. Sử chép: “Trác rất tin yêu Lã Bố, nhận làm con nuôi”. Vì thế, khi Vương Doãn nói chuyện giết Đổng Trác, Lã Bố đã nói: “Làm thế thì còn gì là cha con!”.
Vương Doãn nghe vậy đã nói với Lã Bố rằng: “Ngài vốn họ Lã chứ đâu phải họ Đổng, nào có quan hệ ruột thịt gì. Nay Đổng Trác chỉ lo cho ông ta, sao gọi là cha con được”. Nghe thế, Lã Bố bèn đồng ý. Đoạn mô tả trong sử sách này cho thấy, Lã Bố khi đó vẫn nhớ đến tình cha con giữa mình và Đổng Trác.
Tuy nhiên, khi đó, Đổng Trác đã trở thành một kẻ chuyên quyền, hung hãn, tàn bạo, một tên “quốc tặc” làm loạn thiên hạ, các chư hầu ở Quan Đông đều đã khởi binh thảo phạt Đổng Trác.
Có thể nói, lúc bấy giờ, việc giết Đổng Trác là việc ai cũng có thể làm. Vì vậy, nếu có gì đáng chê trách Lã Bố thì chính là Bố đã lấy việc công để trả thù riêng của mình.
Sự kiện diễn ra sau đó mới thể hiện hết tính cách của Lã Bố.  Sau khi Đổng Trác chết, do Vương Doãn không tha cho thuộc hạ của Đổng Trác, vì thế, thuộc hạ của Trác là Lý Thôi, Phàn Trù, Lý Mông dẫn hơn 10 vạn binh mã vây thành Trường An.
Lúc bấy giờ, tại Lạc Dương, dưới sự hoạch định của Vương Doãn, Lã Bố được phong là Phấn uy đại tướng, tước là Ôn hầu, cung tham dự việc chính sự. Tuy nhiên, khi Lý Thôi, Quách  Dĩ mang quân tới bao vây Trường An, Lã  Bố tự mở cửa thành xông ra đơn thân độc mã đánh nhau với Quách Dĩ.
Với tư cách là một vị chủ soái, Lã Bố không nhất định phải đơn thương độc mã mở cửa thành ra đánh với Quách Dĩ. Hành động này cho thấy, Bố là kẻ không quan tâm nhiều tới đại cục, chỉ coi việc chém tướng đoạt cờ là quan trọng, giống với một hiệp khách giang hồ hơn là của một đại tướng quân.
Khi thành Lạc Dương bị phá, Lã Bố bỏ chạy. Bố yêu cầu Vương Doãn chạy theo mình nhưng Vương Doãn nhất định không đi.
Sau trốn khỏi thành Lạc Dương, đầu tiên Lã Bố tới đầu quân cho Viên Thuật. Tuy nhiên, Viên Thuật cự tuyệt không nhận Lã Bố. Bắt đầu từ đây, Lã Bố trải qua quãng thời gian bất đắc chí và không được may mắn.
Rời khỏi chỗ Viên Thuật, Lã Bố đi một mạch dài, qua sông Hoàng Hà tới quận Hà Nội thuộc Tính Châu, theo thái thú Hà Nội là Trương Dương - người vốn từng cùng ông phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên.
Tuy nhiên, quân của Lý Thôi, Quách Dĩ đuổi quá gấp, Lã Bố lại phải rời Hà Nội đi về phía Nam, vượt sông tới chỗ Viên Thiệu. Tại đây, Lã Bố giúp Viên Thiệu đánh tướng Khăn Vàng là Trương Yên ở Thường Sơn. Yên có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn quân kỵ.
Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố vì thế thường xuyên cưỡi ngựa mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Quân Trương Yên thua tan tác, bản thân Trương Yên nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình.
Lã Bố lập công, có ý coi khinh những thuộc hạ của Viên Thiệu, liên tiếp sai người giục Viên Thiệu thăng chức cho mình. Tuy nhiên, Thiệu có ý nghi kỵ Lã Bố, cứ ậm ờ không chịu phong chức. Thấy Viên Thiệu không đáp ứng, Bố bèn xin về Lạc Dương. Viên Thiệu ngoài mặt đồng ý, phong Lã Bố làm Tư lệ hiệu úy, nhưng sau lưng lại dặn các tướng thừa cơ giết ông.
Lã Bố đoán biết Viên Thiệu nghi ngờ mình, nên sắp đặt kế thoát thân. Ban đầu Lã Bố giả cách ngồi trong trướng gảy đàn tranh, nhưng sau đó đưa đàn cho người khác gảy tiếp để lừa thủ hạ của Viên Thiệu, còn mình thì bí mật nhân trời tối lẻn chạy trốn.
Một lúc sau thủ hạ của Viên Thiệu đi thám thính nghe tiếng đàn tắt tưởng Lã Bố đã ngủ bèn đi báo cho các tướng của Viên Thiệu. Các tướng ập đến mới biết bị lừa.
Viên Thiệu nghe tin báo không giết được Bố bèn sai người đuổi theo, nhưng những người đuổi theo đều không địch nổi Lã Bố, bị đánh phải quay trở về. Cùng đường, Lã Bố lại đành phải tìm đến chỗ Trương Dương. Trương Dương không nhắc lại việc trước đây Lã Bố ra đi không từ biệt, cho Bố quay trở lại.
Từ đây có thể thấy, nguyên nhân Lã Bố bỏ Viên Thiệu là do Thiệu đã có ý nghi kỵ Lã Bố từ trước. Hơn nữa, Lã Bố khinh thường những thuộc hạ của Thiệu là không xứng đáng ngang hàng với mình.
Kỳ thực, chuyện này không thể trách được Lã Bố, bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả chức xa kỵ tướng quân của Viên Thiệu cũng là tự phong chứ không phải là do triều đình sắc phong. Vì thế, những chức quan dưới trướng của Viên Thiệu đều do ông ta tự phong cho cả.
Những chức quan này đương nhiên không thể sánh ngang với chức phấn uy tướng quân, tước ôn hầu của Lã  Bố do triều đình phong cho. Vì thế, Lã Bố có nói rằng, những thuộc hạ của Viên Thiệu không thể sánh ngang với mình cũng chẳng có gì sai cả.
Thêm vào đó, khi Lã Bố tham gia quân của Viên Thiệu đã lập nhiều công lớn. Chỉ riêng chuyện một mình một ngựa  Xích Thố xông vào trại quân Trương Yên rồi đánh cho chúng tan tác cũng đủ thấy Lã Bố uy dũng thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà sử chép rằng, mọi người “đều sợ Bố”. Một vị tướng do triều đình phong, lại có công lớn đương nhiên có tư cách để cao ngạo một chút.
Lại nói chuyện Lã Bố sau khi trở lại với Trương Dương vẫn không được an toàn, bởi lẽ Lý Thôi, Quách Dĩ vẫn không chịu buông tha, còn ban lệnh treo thưởng truy nã Bố. Thuộc hạ của Trương Dương đều bị bọn Lý Thôi, Quách Dĩ mua chuộc, định hợp mưu bắt Lã Bố giao nộp.
Sau khi Lã Bố biết chuyện, đã nghĩ ra một nước cờ cực kỳ cao minh. Lã Bố biết Trương Dương là người nghĩa khí vì thế đã nhắm vào điểm yếu này của Trương. Chuyện kể rằng, Trương Dương là người khoan dung, quản thuộc hạ không nghiêm.
Ngay cả khi có người mưu phản, bị phát giác nhưng Trương Dương không xử tội mà chỉ khóc. Một hôm, Lã Bố nói với Dương rằng: “Nay Lã Bố này ở trong châu của ông. Ông giết tôi thì quân của ông sẽ yếu đi. Chi bằng bắt tôi giao cho bọn Quách, Dĩ sẽ được bổng lộc”.
Trương Dương vốn không có chủ ý này, tuy nhiên, Lã Bố nói không hề sai chút nào. Vì thế, Dương ngoài mặt thì hứa với bọn Quách, Dĩ sẽ bắt Lã Bố nhưng thực tế bên trong vẫn bảo vệ Lã Bố. Nhờ cách này, Lã Bố đã thoát được khỏi lệnh truy nã của triều đình, thoát khỏi thân phận của một tội phạm.
Từ đó, có thể thấy, Lã Bố rất biết cách nhìn nhận thế cục cũng như nắm bắt tính cách con người. Do đó, việc Lã Bố được giao cho chức chủ bạ đồng thời được Đinh Nguyên yêu thích cũng không phải là chuyện nói bừa.
Chẳng bao lâu sau, Duyễn Châu có nội loạn, lại cho Lã Bố một cơ hội để dựng lại sự nghiệp. Tuy nhiên, cuộc nội loạn này cũng bắt đầu từ Lã Bố. Trong thời gian Lã Bố trốn khỏi chỗ của Viên Thuật về với Trương Dương từng đi qua chỗ của Trương Mạc khi đó làm thái thú Trần Lưu.
Khi chia tay, hai người đã nắm tay thề sẽ tương trợ lẫn nhau. Viên Thiệu nghe tin rất giận dữ. Trần Lưu khi đó thuộc quyền cai trị của Tào Tháo, vì thế, Trương Mạc rất sợ Tào Tháo sẽ giúp Viên Thiệu đánh mình.
Tới năm Hưng Bình thứ nhất, tức năm 194, Tào Tháo do nghi ngờ châu mục Từ Châu là Đào Khiêm giết cha mình, bèn mang quân đánh Từ Châu. Không giết được Đào Khiêm, Tào Tháo sát hại rất nhiều người dân vô tội ở Từ Châu.
Trần Cung và Trương Siêu, em của Trương Mạc cùng nhau khuyên Mạc khởi binh làm phản, chống lại Tào Tháo. Cung khuyên Mạc rằng: “Nay thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi lên ở khắp nơi, thiên đế thì ở nơi xa không nên ngu trung.
Nay Lã Bố là kẻ tráng sĩ, thiện chiến, nếu như đón được người này về, cùng nhau cai quản Duyễn Châu thì có thể xưng hùng một phương”. Lý do mà Trần Cung khuyên Trương Mạc hợp tác với Lã Bố, chống lại Tào Tháo là vì Bố là người “tráng sĩ, thiện chiến”. Điều này một lần nữa chứng minh, Bố là một kẻ sức vóc, uy dũng hơn hẳn người thường.
Sau nhiều lần giao tranh với Tào Tháo, Lã Bố cuối cùng đã không địch lại được nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc, đành phải bỏ chạy theo về với Lưu Bị. Một người cả đời phải vào vai một chính nhân quân tử như Lưu Bị đương nhiên không thích thú một kẻ giang hồ, theo chủ nghĩa cá nhân như Lã Bố.
Sách “Anh hùng ký” có chép rằng: Lưu Bị gặp Bố, rất vui mừng kính trọng, nói với Bố rằng: “Tôi và tướng quân là người cùng quê. Khi quân Quan đông khởi nghĩa, muốn giết Đổng Trác, tướng quân giết Trác theo về Quan Đông. Quân Quan đông lại lo lắng vì tướng quân, đều muốn giết ngài”.
Lã Bố nghe Lưu Bị nói vậy, mời vào trong trướng, ngồi lên giường vợ mình, ra lệnh cho vợ bái Lưu Bị, rồi rót rượu cho Lưu Bị và Lã Bố ăn uống. Trong tiệc rượu Bố gọi Bị là em. Lưu Bị thấy Bố lời nói và hành động không bình thường, bề ngoài thì vẫn vui cười nhưng trong lòng không vui.
Thực tế thì lúc bấy giờ, Lã Bố thực sự rất kính trọng Lưu Bị, hơn nữa, Lưu Bị với Bố cùng là người miền Bắc vì thế mới có chuyện mời Lưu Bị vào nhà sau, ngồi lên giường vợ mà lệnh cho vợ ra bái chào.
Hơn nữa, vào thời nhà Hán, quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân” vẫn chưa thực sự nặng nề như sau này vì thế, việc Lã Bố mời Lưu Bị vào nhà sau uống rượu cũng có thể là để thể hiện sự thân mật.
Vào thời điểm lúc bấy giờ, Lưu Bị 34 tuổi, Lã Bố hơn Lưu Bị 2 tuổi, do vậy Lã Bố gọi Lưu Bị là em cũng không có gì sai. Tuy nhiên, Lưu Bị lại không nghĩ như vậy. Bị cho rằng, Bố là kẻ tới hàng mình, do vậy gọi mình là “em”, lại cho vợ ra ngồi cùng uống rượu là việc không hợp lễ nghĩa vì thế mới nói rằng, “Lã Bố lời nói bất thường” mà không lấy làm vui.
Sau này, để chia rẽ Lã Bố và Lưu Bị, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp nhận. Lã Bố thấy Lưu Bị hợp tác với Tào Tháo, sợ hai bên liên kết đối phó với mình nên bắt đầu lo lắng. Về sau, Viên Thuật ở Dương Châu mang quân tấn công Từ Châu.
Lưu Bị mang quân ra chống cự ở Hoài Âm. Viên Thuật viết thư cho Lã Bố xúi Bố đánh úp Từ châu thì sẽ tạ ơn bằng 20 vạn hộc lương. Lã Bố nghe theo, nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì (thủ phủ Từ châu) là Trương Phi và Tào Báo bất hòa bèn mang quân đánh úp thành.
Tào Báo bị Trương Phi giết, thủ hạ là Hứa Đam và Chương Luống đến gặp Lã Bố, khuyên nhân lúc đêm tối đánh ngay thì ở trong thành sẽ làm nội ứng. Lã Bố bèn tiến quân, Hứa Đam mở cửa thành, Lã Bố chiếm được Hạ Bì.
Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại, phải lui quân về Quảng Lăng. Trong lúc thất thế lại bị Viên Thuật đánh bại một trận nữa, phải chạy ra Hải Tây. Lúc bấy giờ, Lưu Bị rơi vào tình thế khốn quẫn không còn được nào để đi được nữa.
Trong tình thế ấy, Lã Bố vẫn không đuổi tận giết tuyệt Lưu Bị, ngược lại, chấp nhận cho Lưu Bị đầu hàng và cho về giữ Tiểu Bái theo yêu cầu của Lưu Bị. Sau này, Lã Bố tự xưng là châu mục Từ châu vẫn cho mời Lưu Bị xưng là thứ sử Dự Châu.
Từ cách ứng xử với Lưu Bị, đủ thấy, Lã Bố vẫn là một kẻ giữ đúng tính cách giang hồ trượng nghĩa của mình, không nhỏ nhen như Viên Thiệu, cũng không cạn nhân tình như Tào Tháo. Nhưng Lã Bố cũng chết cũng vì cái nghĩa khí giang hồ ấy.
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Khi quân Tào kéo tới Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Quảng, Lã Bố thua Bị mấy trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo bèn gửi thư dụ hàng ông. Lã Bố muốn hàng, nhưng Trần Cung cho rằng không nên, và hiến kế chia quân chống lại. Lã Bố ban đầu nghe theo, nhưng nghe lời vợ can không nên đi lại thay đổi ý định không đi nữa, chỉ sai Hứa Dĩ, Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật lần nữa.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được Hạ Bì, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Úc và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì.
Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Trong khi đó viện binh của Viên Thuật và Trương Dương vẫn không thấy đến.Trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng, hy vọng Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo.
Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình, nhưng vẫn vây đánh thành. Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo.
Trong lúc đó, một thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn bắt trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc quân vào.
Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, nói với các thủ hạ hãy chặt đầu mình nộp cho Tào Tháo lấy thưởng, nhưng các thủ hạ của ông không nỡ làm.
Quân Tào tiến lên lầu bắt trói được Lã Bố. Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết Bố vì Bố là người hay trở mặt, từng giết Đinh Nguyên và Đổng Trác. Tào Tháo nghe theo, bèn sai mang Lã Bố giết chết.

Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.

Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.

Đọc nhiều nhất

Tin mới