Một thời huy hoàng của pháp lam triều Nguyễn

Pháp lam (pháp lang) là một sản phẩm có cốt bằng đồng, bên ngoài tráng men, có nguồn gốc từ vùng Trung Á. Nghề làm pháp lam huy hoàng và tồn tại qua 5 đời vua triều Nguyễn và để lại những giá trị tuyệt mĩ.

Theo thông tin từ Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, tùy theo phương pháp chế tác thai cốt và phương thức tráng men mà hình thành bốn loại: Kháp ti pháp lang; Họa pháp lang; Tạm thai pháp lang và Thấu minh pháp lang.

Một trong những trung tâm pháp lam nổi tiếng của Trung Quốc thời xưa là ở Quảng Đông. Từ đây, những món đồ được chế tác theo kỹ nghệ họa pháp lang đã theo chân các tàu buôn Trung Hoa đi khắp nơi và du nhập vào Việt Nam.

Mot thoi huy hoang cua phap lam trieu Nguyen

Pháp lam trang trí trên nghi môn, Hoàng thành Huế.

Quý vật cung đình

Pháp lam là danh xưng do triều đình nhà Nguyễn đặt ra để gọi những chế phẩm làm bằng đồng tráng men nhiều màu. Pháp lam do các nghệ nhân trong quan xưởng của triều Nguyễn chế tác, tiếp thu từ kỹ nghệ “pháp lang” (falang) của Trung Quốc.

Pháp lam Huế xuất hiện nhiều dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Đây là thời kỳ thịnh vượng của triều Nguyễn, quốc gia thống nhất, kinh tế ổn định. Triều đình chăm lo việc xây dựng kinh đô, đền miếu, trang trí tô điểm cho đời sống đế vương. Nghệ thuật pháp lam được sử dụng chủ yếu trong việc trang trí hoàng cung, lăng tẩm…

Pháp lam không phải là một nghệ thuật bình dân, mà sản phẩm này được dùng trong hoàng cung, tầng lớp quan lại triều Nguyễn. Vì thế, hiện vật pháp lam sau năm 1945 còn lại rất ít ở các phủ đệ, dinh thự. Trong dân gian, ít gia đình có thể sở hữu pháp lam. Do đó, sự phổ biến, kế tục nghệ thuật pháp lam rất bị hạn chế.

Sau này, khi xã hội bắt đầu chú ý đến các tác phẩm pháp lam, thì kỹ thuật chế tác đã thất truyền, dấu tích các lò xưởng cũng không còn. Đó là lý do vì sao, sau nhiều năm tìm tòi, khôi phục nghề chế tác pháp lam nhưng không có hiệu quả.

Đối với người Trung Quốc, pháp lam là tất cả các chế phẩm có cốt làm bằng đồng, được phủ một hoặc nhiều lớp men màu rồi đem nung. Có một số phương pháp chế tác thai cốt (dán chỉ đồng hay chạm trổ trực tiếp lên cốt đồng) và phương thức tráng men (phủ men vào các ô trũng) hay trực tiếp vẽ các họa tiết trang trí bằng men màu (trên bề mặt cốt đồng) để tạo nên giá trị pháp lam.

Pháp lam Huế là một loại vật liệu kiến trúc, cốt đồng, bên ngoài tráng nhiều lớp men đa màu, chịu đựng tốt các tác động ngoại lực, nhiệt độ mưa nắng và thời gian. Bởi thế, pháp lam thường được sử dụng để tạo thành các đồ án trang trí hình khối gắn trên đầu đao, đỉnh nóc, bờ quyết, mái nhà. Hoặc tạo thành các mảng trang trí trên các cung điện, nghi môn hoàng cung và lăng tẩm vua chúa.

Dấu ấn pháp lam Huế

Đầu thời nhà Nguyễn, quan lại sang nhà Thanh công cán thường dành tiền mua pháp lam đem về. Thấy giới quý tộc chuộng dùng sản phẩm pháp lam, một người tên là Vũ Văn Mai đã sang Quảng Đông học nghề. Về nước, ông tâu lên vua và được giao cho lập quan xưởng chế tác pháp lam. Sách “Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi rõ về việc này.

Xét về mỹ thuật, pháp lam Huế là những tác phẩm nghệ thuật đa dạng, màu sắc rực rỡ, đề tài trang trí phong phú và sinh động.

Đều là những cổ vật quý hiếm, sang trọng chỉ được dùng để trang trí nơi cung điện, tôn miếu uy nghiêm như điện Thái Hòa, điện Hòa Khiêm, điện Biểu Đức.

Pháp lam còn được sử dụng trong việc trang trí đồ dùng trong cung đình như bát, đĩa, khay, bình hoa, những đồ tế tự như lư trầm, bát hương, quả bồng.

Theo nghiên cứu của giới chuyên môn, trình độ kỹ thuật chế tác pháp lam thời kỳ đầu chưa đạt độ sắc nét, tinh xảo, màu sắc không bằng pháp lam Trung Quốc. Tuy nhiên, pháp lam Huế lại mang nét đặc trưng riêng bởi dấu ấn sáng tạo của người Việt, mang âm hưởng văn hóa Việt.

Hiện nay, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế có trưng bày một số hiện vật pháp lam quý giá, gồm các vật dụng cung đình. Ngoài ra, pháp lam còn được lưu giữ trên các đồ án rồng, bát bửu, hoa điểu, thơ văn chữ Hán... tại một số công trình kiến trúc cổ. Đa số những hiện vật pháp lam này đều do nghệ nhân và thợ Việt Nam thực hiện.

Căn cứ vào các tác phẩm còn lưu giữ ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, cho thấy dòng pháp lam thời Nguyễn có đặc trưng riêng, không rập khuôn với dòng pháp lam thời Minh và thời Thanh ở Trung Quốc. Đây chính là thành tựu đáng trân trọng của các nghệ nhân pháp lam Việt Nam xưa.

Đầu thời Nguyễn, hoàng đế Gia Long đã thuê nghệ nhân Trung Quốc sang Việt Nam để chế tác đồ pháp lam, đồng thời dạy nghề cho đội ngũ thợ trong ngự xưởng. Năm 1827, “pháp lam Tượng cục” của triều Nguyễn ra đời, đặt cơ sở tại Huế, Ái Tử (Quảng Trị) và Đồng Hới (Quảng Bình).

Từ khi thành lập cho đến khi suy thoái vào cuối thế kỷ 19, “pháp lam Tượng cục” đã sản xuất nhiều sản phẩm phục vụ cho việc trang trí các cung điện ở Huế, nghi lễ cung đình và sinh hoạt trong hoàng cung.

Cùng với các sản phẩm pháp lam được sản xuất tại chỗ, các vua triều Nguyễn còn ký kiểu đồ pháp lam từ Trung Quốc theo yêu cầu riêng về mẫu mã và hình thức, tạo nên một dòng pháp lam Huế đặc trưng. Ngày nay, nhiều sản phẩm trong số đó còn được lưu giữ.

Theo thông tin từ Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, vua Thiệu Trị chỉ trị vì trong thời gian tương đối ngắn (1841 - 1847). Tuy nhiên dưới triều đại này, các sản phẩm pháp lam do “pháp lam Tượng cục” sản xuất và “pháp lam ký kiểu” từ Trung Quốc nổi tiếng hoàn hảo về cốt đồng, hài hòa sắc sảo về đường nét, sống động về sắc men.

Dưới triều vua Tự Đức, “pháp lam Tượng cục” tại kinh đô Huế cũng sản xuất rất nhiều sản phẩm dùng để phục vụ nhu cầu của triều đình, nhưng chỉ duy trì liên tục trong giai đoạn 10 năm đầu.

Từ năm 1858, chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chính trị không ổn định, kinh tế suy yếu nên hoạt động của “pháp lam Tượng cục” đi vào suy thoái và chấm dứt hoạt động vào cuối triều vua Đồng Khánh.  

Vị vua nước Việt duy nhất lấy vợ ở châu Phi

Hàm Nghi là vua duy nhất trong sử Việt từng lấy vợ ở châu Phi. Năm 1904, Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe, con gái của Chánh án tòa Thượng phẩm Alger ở Algeria. Đám cưới của họ trở thành sự kiện văn hóa của thủ đô Alger.

Vi vua nuoc Viet duy nhat lay vo o chau Phi
Theo "Quốc sử quán triều Nguyễn", triều đại này có 4 vua từng sống ở nước ngoài là Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại. Đây là triều đại có nhiều vua sống ở nước ngoài nhất. 

Hậu cung gò bó, nhiều ghen tuông, đố kỵ của phi tần triều Nguyễn

Cung phi trong Tử Cấm Thành sống tương đối nhàn hạ, no đủ nhưng rất gò bó, phải kiêng cữ đủ thứ, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài .

Thông qua cuốn sách Đời sống cung đình triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa, năm 1993) và Đời sống trong Tử Cấm Thành (NXB Đà Nẵng, năm 1996), tác giả Tôn Thất Bình đã cố gắng phản ánh trung thực, khách quan nhất những sinh hoạt đời thường của hoàng gia nói chung và các hoàng phi, cung tần triều Nguyễn nói riêng.

Cả 2 cuốn sách được Tôn Thất Bình biên soạn dựa trên những tư liệu của các tác giả người Pháp và các công trình nghiên cứu, tìm hiểu đáng tin cậy của các tác giả Việt Nam.

Vua nào bị người đời mỉa mai "tiên sư của nghề nịnh nọt"?

Do ăn chơi sa đọa, quen thói nịnh thực dân Pháp, một ông vua triều Nguyễn bị người đời mỉa mai “tiên sư của nghề nịnh nọt”.

Theo sách Chín đời chúa, 13 đời vua triều Nguyễn, cuộc đời làm vua của Khải Định được sử sách ghi chép với những cuộc ăn chơi và nịnh nọt, lấy lòng thực dân Pháp nên trong dân gian vẫn thường lưu truyền câu ca dao mỉa mai “Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây / Nghề này thì lấy ông này tiên sư”. 

Triều Nguyễn có tất cả 13 vị vua, Khải Định là vị vua thứ 12. Ông là phụ hoàng của vua Bảo Đại - vị hoàng đế cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Khải Định có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo(1885-1925), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Tuấn. Ông trị vì Đại Nam từ năm 1916-1925.

Khải Định bị đánh giá là vị vua chỉ ham chơi bời, cờ bạc. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cả quan hộ vệ. Ông còn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng tộc truyền thống và thường bị đả kích trên báo chí đương thời.

Năm 1922, vua Khải Định có chuyến “Ngự giá Như Tây”, tới Pháp để dự hội chợ đấu xảo của các nước thuộc địa. Tính cách và cách ăn mặc lố lăng của Khải Định bị chê bai rất nhiều. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết vở kịch Con rồng tre để châm biếm vị vua nịnh nọt triều Nguyễn.

Dưới thời Khải Định, năm 1919, triều Nguyễn ban lệnh chính thức bỏ các kỳ thi Nho học thời phong kiến để thay bằng các kỳ thi chữ quốc ngữ, “đường khoa cử phong kiến đến đây dứt hẳn”.

Sau khi qua đời, vua Khải Định được an táng tại Ứng Lăng ở xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Lăng Khải Định là kiệt tác nghệ thuật, mang vẻ đẹp kết hợp giữa nét kiến trúc phương Đông pha lẫn phương Tây.

Nghệ nhân Phan Văn Tánh đã dùng chân để vẽ bức tranh “Cửu Long ẩn vân” - 9 con rồng ẩn trong mây tại lăng vua Khải Định. Phan Văn Tánh là họa sĩ nức tiếng đương thời.

 

Đọc nhiều nhất

Tin mới