Lý giải thú vị: Người “cầm vía” lễ Mật là ai?

(Kiến Thức) - "Lễ Mật" là tên gọi mỹ miều của lễ hội phồn thực "linh tinh tình phộc" độc đáo nhất TG diễn ra ở Phú Thọ vào một đêm duy nhất tháng Giêng.

Lý giải thú vị: Người “cầm vía” lễ Mật là ai?
Thường, người ta chỉ nhìn đôi trai gái cầm sinh thực khí đâm vào nhau, ít ai để ý đến người "cầm vía" cho lễ Mật (diễn ra tại đình Trò xóm Trám thuộc xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ) thành công. Vậy, người "cầm vía" lễ Mật là ai? Phải như thế nào và quan trọng hơn, họ nắm giữ bí quyết, thần chú gì ở vùng đất có thế "ngưu miên"?
Linh tinh thời cổ
Ông Nguyễn Thành Ngữ, 66 tuổi hiện là thủ từ của đình Trò nổi tiếng gần xa. Ông Ngữ bảo, bây giờ thì gọi đó là đình, chứ ngày xưa gọi là miễu hay điếm, điếm Trò là nơi cất giữ biểu tượng sinh dục nam và nữ. Cũng là nơi diễn ra lễ hội "linh tinh tình phộc" vào đêm 11, rạng sáng 12 tháng Giêng hằng năm.
Ông Ngữ nói, lễ hội này nổi tiếng gần xa cũng vì chẳng đâu có. Nó vừa lạ vừa táo bạo lại rất linh thiêng nữa. Nhưng thời xưa, thì duy chỉ có người địa phương biết đến lễ hội này. Vì người nơi khác cứ nghĩ, đó là trò chơi vừa quái thai lại nhăng nhít.
Lễ hội "linh tinh tình phộc" cổ xưa cũng khác bây giờ nhiều lắm. Ông Ngữ kể, trước điếm Trò nằm trên một gò đất cao nhất của làng. Xung quanh có nhiều cây Trò nên đặt là điếm Trò. Bao quanh điếm Trò là rừng Trám nên đặt tên cho làng theo loài cây ấy. Các cụ xưa, cứ lấy tên đình và làng ghép lại thành Trò Trám.
Điếm Trò, nơi diễn ra lễ hội phồn thực độc đáo.
Điếm Trò, nơi diễn ra lễ hội phồn thực độc đáo. 
Gia phả làng có lúc lại ghi là miễu Đụ Đị. Làng có lễ hội ấy nên nhà nào nhà nấy đông con đông cháu lắm. Không phải ngày xưa mới thế, bây giờ cũng vậy, may Nhà nước có chính sách kế hoạch hóa gia đình, nếu không thì...
Ông Ngữ nhắc lời tổ tiên kể rằng, lễ hội này có từ thời Hồng Bàng. Dã sử gọi thời này là thượng cổ Kinh Dương Vương với quốc hiệu Xích Quỷ. Nhiều chuyên gia khảo cổ cho rằng, lễ hội phồn thực của điếm Trò là cổ xưa nhất mang tính phi vật thể còn sót lại. 
Đêm 11, rạng sáng 12 tháng Giêng khi chủ lễ Mật hô bốn chữ "linh tinh tình phộc", tức thì nam thanh nữ tú được chọn cầm bộ phận sinh dục nam và nữ bằng gỗ đâm vào nhau. Nếu trúng thì năm ấy thuận hòa mưa nắng, nếu chệch đi thì y như rằng, vất vả cũng không đủ ăn.
Người "cầm vía" lễ Mật xưa ví như phù thủy, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Họ có khả năng bắt ma, xích quỷ lại chuyện trò được với thần thánh cõi âm. Nên mỗi thời, chỉ có một người "cầm vía" lễ Mật mà thôi.
Chủ lễ Mật làm nghi thức "linh tinh tình phộc" - ảnh nhân vật cung cấp.
Chủ lễ Mật làm nghi thức "linh tinh tình phộc" - ảnh nhân vật cung cấp. 
Người 30 năm "cầm vía"
Những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ, lễ hội phồn thực điếm Trò đi vào quên lãng. Ngôi đình cổ theo năm tháng mục nát, hai linh khí biểu trưng cho sinh thực khí nam nữ bằng gỗ quý cũng thất lạc mất. Mãi sau năm 1980, lễ hội mới được khôi phục.
Người làng bắt đầu đi tìm cho mình một người "cầm vía" lễ Mật. Nhưng xem ra khó, các cao niên thì người nhớ ít, kẻ nhớ nhiều những lời niệm chú nhưng đều không đạt. Bỗng dưng, trong lúc cả làng đang bế tắc thì ông Chử Bá Thơ năm ấy mới ở ngưỡng 50 tuổi tròn lại tự dưng hiểu biết sách cổ cùng những lời chú thần thánh. Nói theo cách của người theo đạo Thiên Chúa thì tự nhiên được ơn "thiên triệu", tức được gọi vào bậc tu trì phụng vụ.
Vậy là ông Thơ thành người "cầm vía" lễ Mật điếm Trò. Bây giờ, thì người "cầm vía" ấy đã lên chức cụ, tròn 85 tuổi. Nhoáng cái, đã 30 năm cụ Thơ ở ngôi phù thủy của làng. Những lễ nghi, câu chú đến diễn văn Hán Nho cụ đều thuộc làu. 
Chiếc hòm đựng sinh thực khí nam nữ.
Chiếc hòm đựng sinh thực khí nam nữ. 
Cụ Thơ kể, ngày trước chọn người cầm nõ - nường đêm lễ Mật thì phải là trai tân - gái trinh. Nhưng bây giờ, bọn trẻ hay ngượng không dám làm nên phải chọn người đã có gia đình.
Đêm lễ Mật, cụ Thơ phải bí mật làm những nghi thức mà chỉ người "cầm vía" mới được biết. Sau khi đọc diễn văn, những câu hát lạ lùng được xướng lên, người ta gọi là hát Nhấy Nhả: Ai làm cho vú em sưng, cho bụng em ỏng, cho lưng em gù/Tại vì cái bố thằng cu, đêm đêm nó chọc cái mu con rùa.
Sau màn đối đáp, chủ lễ Mật hô lớn: Linh tinh tình phộc, tức thì điện tắt và đôi trai gái cầm nõ - nường đâm vào nhau. Chủ lễ lại hô lớn ba lần: Tháo khoán, trai gái yêu nhau sẽ chọn cho mình bụi cây hay gốc trám để hòa mình cùng lễ hội phồn thực.
Cụ Thơ bảo, linh vật sinh vật khí nam nữ là bảo vật của điếm Trò. Mỗi năm, đến giờ thiêng thì chủ lễ mới được phép đưa ra cho mọi người chiêm ngưỡng. Sau lễ, chủ lễ lại cất vào một chiếc hòm được niêm phong cẩn thận.     
Chiếc đàn giằng dùng trong điệu hát Nhấy Nhả.
 Chiếc đàn giằng dùng trong điệu hát Nhấy Nhả. 
Đất trâu ngủ 
Vùng đất xóm Trám vốn được mệnh danh là thế "ngưu miên". Cụ Thơ giải thích là thế đất trâu ngủ. Khi nào con trâu thức giấc thì cả làng sẽ giàu có, hưởng lộc không hết. Nhưng bao giờ trâu thức giấc lại là câu hỏi đến nay chưa có lời đáp.
Vùng đất Trám do cụ Ngô Quang Điện về khai phá. Địa phương từng ghi danh một thần đồng không học hành mà lại thành tài, đỗ tiến sĩ thời Lê. Đó là Nghè Giáp Nguyễn Quang Thành.
Ba mươi năm "cầm vía" lễ Mật, cụ Thơ khẳng định sự thật chắc như đinh đóng cột rằng: "Nếu năm nào nõ - nường đâm trúng nhau thì dân làng đều làm ăn phát đạt, mọi việc thuận hòa. Năm nào đâm chệch thì rất khó làm ăn, thất bát là chuyện khó tránh khỏi".
Việc này đã được chứng minh trong suốt những năm qua ở vùng đất "ngưu miên". Và ngay ở điếm Trò, người làng thi thoảng còn thấy đêm trăng suông có ba con vịt vàng, trong đó có một con vịt què đi trước sân đình. Ai cũng hò nhau đuổi con vịt què, nhưng vịt chui vào đình rồi biến mất.
Những chuyện liêu trai chí dị ở mảnh đất này thì nhiều vô kể. Cụ Thơ không dám kể vì phần nào mang tính dị đoan. Cụ bảo, những chuyện ấy không quan trọng nữa, vì vừa rồi một số chuyên gia đã về làng thu thập tư liệu, đệ trình Unesco công nhận lễ hội "linh tinh tình phộc" độc nhất vô nhị là văn hóa phi vật thể của nhân loại.
"Lễ Mật ở Tứ Xã là một điển hình của tín ngưỡng phồn thực. Tôi đã tìm hiểu về lễ hội "linh tinh tình phộc" cũng như tất cả các lễ hội thuộc tín ngưỡng phồn thực khác của thế giới và đưa ra so sánh. Từ lịch sử, sự độc đáo, ý nghĩa văn hóa tâm linh đến nghi thức thì ở điếm Trò xứng đáng ở ngôi vị độc tôn, không đâu có được".
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương

Phong tục Tết xưa của người Việt qua tranh dân gian

Phong tục Tết xưa của người Việt qua tranh dân gian
Viết câu đối - một phong tục rất quen thuộc trong ngày Tết truyền thống của người Việt Nam để cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.
 Viết câu đối - một phong tục rất quen thuộc trong ngày Tết truyền thống của người Việt Nam để cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.

Lau đồ thờ đón Tết.
 Lau đồ thờ đón Tết.

Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà.
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà.

Giã giò. Giò dường như là món không thể thiếu với người Việt dịp Tết.
 Giã giò. Giò dường như là món không thể thiếu với người Việt dịp Tết.

Bưng cá chép cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm.
 Bưng cá chép cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm.

Bàn thờ ông Táo.
 Bàn thờ ông Táo.

Súc sắc súc sẻ là một tục lệ rất phổ biến ở thôn quê ta ngày xưa. Vào những ngày đầu năm, từng đoàn trẻ em nghèo kéo nhau đi đến các nhà giàu, bỏ những đồng tiền trong ống tre và lắc lên kêu “súc sắc súc sẻ” để chúc mừng và để xin tiền.
 Súc sắc súc sẻ là một tục lệ rất phổ biến ở thôn quê ta ngày xưa. Vào những ngày đầu năm, từng đoàn trẻ em nghèo kéo nhau đi đến các nhà giàu, bỏ những đồng tiền trong ống tre và lắc lên kêu “súc sắc súc sẻ” để chúc mừng và để xin tiền.

Cúng Giao thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày mùng một. Tết bắt đầu từ giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”.
 Cúng Giao thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày mùng một. Tết bắt đầu từ giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”.

Đốt pháo là một phong tục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và một số dân tộc châu Á. Trước đây, người dân thường đốt pháo đêm Giao thừa với ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi những điều xui xẻo, đưa tiễn những cái cũ để đón những điều mới, may mắn, tốt đẹp.
  Đốt pháo là một phong tục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và một số dân tộc châu Á. Trước đây, người dân thường đốt pháo đêm Giao thừa với ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi những điều xui xẻo, đưa tiễn những cái cũ để đón những điều mới, may mắn, tốt đẹp.


Dựng nêu, đốt pháo. Cây nêu là cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc... có ý nghĩa trừ tà, xua đuổi ma quỷ.
 Dựng nêu, đốt pháo. Cây nêu là cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc... có ý nghĩa trừ tà, xua đuổi ma quỷ.

Du xuân nghe hát ả đào đầu năm mới.
 Du xuân nghe hát ả đào đầu năm mới.

Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn sau 1975

(Kiến Thức) - Số phận của họ đi theo những ngả đường khác nhau, người ở lại đất nước và được trọng dụng, người ra đi và sống lặng lẽ nơi xứ người…

Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn sau 1975
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài Gòn từ 1967-1975. Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây. Ông qua đời ngày 29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài Gòn từ 1967-1975. Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây. Ông qua đời ngày 29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.
Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 thì sang Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ), sống với gia đình con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đã bày tỏ mong muốn được trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam bình thường.
 Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 thì sang Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ), sống với gia đình con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đã bày tỏ mong muốn được trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam bình thường.

Vì sao cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975?

(Kiến Thức) - Nếu không có sự kiện 30/4 thì sớm muộn quân đội Sài Gòn cũng chỉ có nước giải tán vì hết tiền, một phụ tá của Thiệu viết trong hồi ký.

Vì sao cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975?
Sài Gòn cạn tiền hết đạn
Trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết vào cuối năm 1974, ta biết được sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng vì thiếu xăng dầu, đạn dược. Chính điều đó đưa đến quyết tâm lập kế hoạch mở chiến dịch của ta. Tuy nhiên, phía ta không biết rằng, vào thời điểm đó, tình hình chính quyền và quân đội Sài Gòn còn bi đát hơn nhiều.

Đọc nhiều nhất

10 bức ảnh lịch sử khiến nhân loại "rụng tim"

10 bức ảnh lịch sử khiến nhân loại "rụng tim"

(Kiến Thức) - Những năm qua, các nhiếp ảnh gia chụp được nhiều bức ảnh lịch sử có "sức nặng" lay động trái tim của người dân trên khắp thế giới. Mỗi bức ảnh là câu chuyện riêng khiến người xem có những cảm xúc khó quên. 

Tin mới