Huyền tích về bí thuật "đánh đồng thiếp" linh dị ở Việt Nam

Nhà sư D. thông báo với bà Toan rằng ông đã sử dụng bí thuật “đánh đồng thiếp” để kêu gọi âm hồn của những người thân đã quá cố trong gia đình bà Toan dừng việc “ám hại” con cháu ở dương gian.

Huyền tích về bí thuật "đánh đồng thiếp" linh dị ở Việt Nam
Nhà sư D. thông báo với bà Toan rằng ông đã sử dụng bí thuật “đánh đồng thiếp” để kêu gọi âm hồn của những người thân đã quá cố trong gia đình bà Toan dừng việc “ám hại” con cháu ở dương gian. Ngoài ra, để trấn yểm các vong linh này, nhà sư còn hướng dẫn cho bà Toan đóng đinh sắt ở cổng và 4 xung quanh nhà.
Lập tòa, “xử chặt đầu” vong linh bà nội
Bà Nguyễn Thị Toan (SN 1955, trú tại xã Cẩm Văn, Cẩm Giàng, Hải Dương) rõ ràng là người rất mê muội khi đã bỏ ra số tiền vô cùng lớn – theo ước tính của bà là hơn 2 tỷ đồng – để cúng lễ, khấn vái, giải hạn. Trong khi đó, gia cảnh của bà thuộc dạng bần hàn, nhà cửa dột nát, con cái điên loạn, bệnh tật. Sự đau đớn và đen đủi ấy một phần do nhận thức hạn chế của bà Toan, phần khác do “mê trận” cúng bái, lừa lọc mà ai đó đã giăng ra. Trong khuôn khổ loạt bài tìm hiểu về “thuật và tà thuật” này, người viết hi vọng làm rõ hơn về những thủ thuật, phương cách đã được áp dụng khiến bà Toan trở nên lú lẫn, thậm chí bị sai khiến.
Huyen tich ve bi thuat
 Vị trí ông Thông đốt bùa và đóng đinh
Chuyện bắt đầu đơn giản từ việc cháu ngoại của bà Toan khóc đêm rất nhiều. Bà Toan dự định “bán” đứa bé vào chùa làng, với mong muốn thần Phật bảo hộ, giúp nó tránh tà ma quấy nhiễu.
Bà kể rằng: “Ban đầu, tôi định bán cháu vào chùa làng, song, khi tôi vui miệng kể với một người phụ nữ cùng làng, chị ta ngăn tôi, và khuyên tôi nên bán cháu vào chùa Đồng Niên (tp. Hải Dương). Chị ta bảo tôi đưa 600 nghìn để mua 4 mặt Phật, trên đó ghi đầy đủ tên họ, ngày sinh tháng đẻ của mấy người nhà tôi. Chị ta còn cho tôi mấy cái bùa, bảo về đốt ở giữa cổng, như vậy thì nhà tôi sẽ có quan tướng bảo vệ”.
Đứa bé vẫn khóc ngằn ngặt, trong khi bà Toan liên tục bị thúc ép bởi những luận điệu ma mị, đầy tính dọa dẫm – trong “vở kịch” này, có bóng dạng của sư D, trụ trì chùa L.T ở thành phố Hải Dương.
Bà Toan tường thuật: “Cụ (ý nói đến sư trụ trì chùa L.T) bảo tôi rằng nhà tôi nằm trên đất Ngũ Quỷ, là đất cực dữ. Vì thế, cụ phải xuất hồn xuống Âm phủ để dẹp loạn cái bọn quỷ nằm ở đất nhà tôi. Sau khi “đánh đồng thiếp”, cụ thấy phía dưới đất nhà tôi tối như mực, ma rất nhiều, kẻ cười người khóc, người cởi truồng cởi trần, cụ không biết là ai vào với ai, tối quá nên cụ đi lên. Vài ngày sau, cụ lại đánh đồng thiếp xuống đất nhà tôi, cụ gặp cái vong bộ đội đang áp vào cái Trang (là người con gái thứ 3 của bà Toan).
Vong này theo bám cái Trang rất ghê, vì thế, cụ phải xây nhà, cưới vợ cho nó, thì nó mới chịu đi. Tiếp tục, 3 ngày sau, cụ lại thông báo rằng con giai của nhà cái Hương (con gái thứ 2 của bà Toan) bị anh nó ám vào – cái Hương bị sảy đứa đầu mà. Cụ tiếp tục đánh đồng thiếp xuống đất. Vì thằng anh còn bé quá chưa biết đi, cụ phải để nó bú sữa với em nó 10 ngày, rồi mới cho nó đi được.
Huyen tich ve bi thuat
 Bà Toan trình bày việc bị mê muội và mất nhiều tiền bạc
Chưa hết, nửa tháng sau, cụ lại soi thấy cái vong Tàu nó nằm ở trong người cái Hương, cụ bảo cụ cho nó ra mãi mà không được vì nó ác quá. Cuối cùng, cụ nịnh nó vào chùa Sóc Trăng, ở đấy có tất cả vong Tàu. Tất cả 4 lần đánh đồng thiếp ấy mất tất cả vào 200 triệu”.
Không dừng ở đó, có dấu hiệu cho thấy người ta muốn lợi dụng sự mê lú và sợ hãi của bà Toan để kiếm tiền. Vẫn là câu chuyện ma quái mà họ rót vào đầu óc bà Toan: “Cái vong Tàu nhớ cái Hương quá nên quay về, không chịu ở trong Sóc Trăng nữa. Phải chạy 150 triệu để cho cái vong Tàu ấy ra.
Cái vong Tàu này có vòi phun lửa, may mà cụ tránh được chứ không thì cụ mù mắt. Sau đó, cụ phải cho cái vong Tàu vào ngục thứ 13. Nửa tuần sau, lại có tin là cụ Chài (là mẹ chồng tôi), cụ có một cái nón rách với 7 cái sừng, đang nằm trong người cái Trang nên nó mới điên. Hiện giờ, phải lập tòa xử kiện bà cụ.
Đến ngày lập tòa, phải đi vay 150 triệu, phải cho bà cụ Chài ra. Nhưng, đến ngày xử án, bà ấy bảo là bà nội của nó, nên có quyền nằm trong người nó, nên không ra. Thế là mất trắng 150 triệu. Để “tróc” bà cụ Chài ra khỏi người cái Trang, người ta bày cách cho tôi đón 24 nhà sư trong Sóc Trăng, mất 240 triệu là cho bà cụ Chài ra. Đầu tiên cho bà cụ ăn một bát cháo lú, rồi một cụ 102 tuổi mới rút cái vòi ở đầu bà cụ Chài ra, máu tươi phọt ra thì cái Trang mới thoát”.
Vậy mà đã chịu đâu, mấy ngày sau, đến lượt ông Thông (chồng của bà Toan – PV) bị phán là chết yểu. Nhà sư sai đệ tử đưa cho ông Thông mấy lá bùa, mấy cái đinh. Ông Thông phải đốt lá bùa ở hai góc nhà và đóng đinh cạnh cổng, bốn góc thửa đất nhằm tránh tà ma.
Huyền tích về bí thuật “đánh đồng thiếp”
Những lá bùa mà nhà sư đưa cho ông Thông đã bị đốt thành tro bụi, còn mấy chiếc đinh cũng bị ông nhổ lên, vứt đi. Vì thế, rất khó phán đoán loại bùa chú mà nhà sư đã sử dụng đối với gia đình ông Thông – bà Toan. Điều duy nhất rõ ràng là chi tiết về việc “đánh đồng thiếp” để xua đuổi ma tà, yêu quỷ mà nhà sư đã tiến hành.
Một nhà văn hóa dân gian cho hay, khái niệm đồng thiếp là thuật phù phép xuất hồn ra khỏi xác để đi vào cõi âm tìm linh hồn người thân đã chết, hoăc vào cõi tâm linh khác như cõi trời, cõi thủy phủ … Khi đó người ứng đồng sẽ nằm trên giường thiếp đi như đang ngủ nên gọi là đánh đồng thiếp.
Đôi khi người ta hay nói vui đi ngủ là đánh đồng thiếp. Cụ thể hơn, thuật đánh đồng thiếp xuất phát từ văn hóa Trung Hoa. Những người làm phép đưa linh hồn xuống cõi Âm đều được các Pháp sư đội khăn vải tơ điều, phủ kín mặt rồi ngồi trước bàn thờ. Pháp sư đọc “chú”, là những bài bí truyền, để dẫn hồn.
Sau đó, 10 người trong đám thầy phù cùng vũ lộng và xướng lên những bài ca man dại có tính ma quái nhằm đưa hồn người sống xuống cõi Âm. Sau khoảng một thời gian, người xuất hồn đi xuống cõi Âm tỉnh dậy, luôn trong tình trạng mệt mỏi, kiệt sức như thể đã vượt qua một quãng đường dài đầy nan thác.
Song, các nhà khoa học hiện đại giải thích “đánh đồng thiếp” chẳng khác nào thuật thôi miên, áp dụng bằng điện lực. Những hình ảnh tưởng như cõi Âm mà người tham gia đánh đồng thiếp nhìn thấy chẳng qua chỉ là ảo giác trong lúc không kiểm soát được bản thân.
Đặc biệt, thuật “đánh đồng thiếp” lại không nằm trong hệ thống của Phật giáo. Trao đổi về vấn đề này, đại đức Thích Thanh Nhung (trụ trì chùa Đậu, Thường Tín, Hà Nội) cho rằng: “Ngày còn nhỏ, tôi có nghe các cụ nói về chuyện đánh đồng thiếp để đưa hồn người sống vào cõi Âm. Nhưng, đó chỉ là tín ngưỡng dân gian.
Huyen tich ve bi thuat
 Đại đức Thích Thanh Nhung lý giải về thuật “đánh đồng thiếp”
Khi bước chân vào con đường tu tập Phật học, tôi biết rằng thuật đó không có trong kinh sách. Nhà Phật không chủ trương những cái đó. Chẳng qua, đối với những nhà sư vẫn còn đam mê với các thuật, các pháp khác, thì tôi chỉ có thể giải thích rằng ai sinh ra cũng có “nghiệp” – nặng nhẹ khác nhau – thế nên, đối với những nhà sư chưa tu quyết liệt, chưa loại bỏ được cái “nghiệp”, thì dễ dàng rơi vào “nghiệp” cũ, tức là theo Đạo Thánh. Còn như trong Phật giáo thì không có bùa, chỉ có “chú”. Tất nhiên, trong một tình thế nào đó, nhà sư cung cấp bùa cho Phật tử, có lẽ là cũng chỉ để trấn an mà thôi”.
Quay lại với trường hợp của bà Toan ở Hải Dương, số phận của bà đã trở nên vô cùng đắng cay khi rơi vào mê trận của các thuật mà vị sư áp dụng. Bà cay cực thốt lên: “Khi chưa đánh đồng thiếp thì hai đứa con gái nhà tôi còn bình thường. Sau khi đánh đồng thiếp, cái Hương suốt ngày tha thẩn, bỏ cả việc, bỏ cả ý định đi Hàn Quốc. Cái Trang phát rồ hoàn toàn. Không ai coi là nó bỏ nhà đi ra bãi ngô ở bờ sông. Sống không bằng chết”.

Quái đản phương thuốc trường sinh “đoạt mạng” hoàng đế

(Kiến Thức) - Hoàng đế có nhiều đặc quyền đặc lợi nên càng khát khao trường sinh bất tử, nhưng không ít người đã mất mạng chỉ vì đeo đuổi giấc mơ hão huyền này.

Quái đản phương thuốc trường sinh “đoạt mạng” hoàng đế
Sinh lão bệnh tử là quy luật cuộc sống nhưng con người ta mỗi khi nghĩ đến cái chết thường không tránh khỏi lo sợ. Đặc biệt, đối với các hoàng đế, cái chết lại càng khiến họ canh cánh trong lòng. Bởi thế, từ xa xưa, các ông vua Trung Quốc đã rất tích cực tìm cách để trường sinh bất lão.
 Sinh lão bệnh tử là quy luật cuộc sống nhưng con người ta mỗi khi nghĩ đến cái chết thường không tránh khỏi lo sợ. Đặc biệt, đối với các hoàng đế, cái chết lại càng khiến họ canh cánh trong lòng. Bởi thế, từ xa xưa, các ông vua Trung Quốc đã rất tích cực tìm cách để trường sinh bất lão.
Ở thời kỳ ban đầu, nỗ lực của các vua chúa Trung Quốc hướng vào việc đi tìm các vị thần tiên. Họ tin rằng đã có thần tiên thì tất là có thuốc tiên, chỉ cần được các thần tiên ban cho thuốc ấy thì sẽ được sống lâu như trời đất. Bởi thế mới có chuyện Tần Thủy Hoàng cử Từ Phúc dẫn theo 3.000 đồng nam, ngọc nữ ra biển cầu tiên.
Ở thời kỳ ban đầu, nỗ lực của các vua chúa Trung Quốc hướng vào việc đi tìm các vị thần tiên. Họ tin rằng đã có thần tiên thì tất là có thuốc tiên, chỉ cần được các thần tiên ban cho thuốc ấy thì sẽ được sống lâu như trời đất. Bởi thế mới có chuyện Tần Thủy Hoàng cử Từ Phúc dẫn theo 3.000 đồng nam, ngọc nữ ra biển cầu tiên.  
Mấy trăm năm sau, người ta dần tỉnh ra và biết rằng việc cầu tiên là không có hy vọng. Chính vào lúc đó, Đạo giáo Trung Quốc phát triển mạnh rồi các đạo sĩ lớn tiếng quảng cáo cho các loại đan của họ luyện ra có thể giúp con người trường sinh bất tử. Từ đây bắt đầu những tấn bi kịch cho các ông vua vì ham muốn trường sinh mà bị yểu tử.
Mấy trăm năm sau, người ta dần tỉnh ra và biết rằng việc cầu tiên là không có hy vọng. Chính vào lúc đó, Đạo giáo Trung Quốc phát triển mạnh rồi các đạo sĩ lớn tiếng quảng cáo cho các loại đan của họ luyện ra có thể giúp con người trường sinh bất tử. Từ đây bắt đầu những tấn bi kịch cho các ông vua vì ham muốn trường sinh mà bị yểu tử.  
Sử sách cho biết, từ thời Nam Bắc triều, việc luyện thuốc trường sinh bất lão rất phổ biến. Các hoàng đế, dưới sự phát triển rầm rộ của phong trào luyện đan cũng bắt đầu tìm kiếm vận may ở những viên đan dược được đám đạo sĩ rêu rao là vô cùng kỳ diệu.
Sử sách cho biết, từ thời Nam Bắc triều, việc luyện thuốc trường sinh bất lão rất phổ biến. Các hoàng đế, dưới sự phát triển rầm rộ của phong trào luyện đan cũng bắt đầu tìm kiếm vận may ở những viên đan dược được đám đạo sĩ rêu rao là vô cùng kỳ diệu.  
Tấn Ai Đế là một trường hợp đã thử nghiệm. Ông lên ngôi năm 21 tuổi và đã nhanh chóng mê thuật trường sinh. Rất nhiều đạo sĩ, phương thuật vào ra cung đình để truyền cho ông bí thuật trường thọ. Ông làm theo các phương pháp trường thọ của họ là nhập định, không ăn ngũ cốc, uống đơn dược để cầu bất lão. Tuy nhiên mỗi khi uống đơn dược là người ông nóng rực lên, dục tính bộc phát không sao kiềm chế nổi. Bởi thế chỉ trị vì được 4 năm, ông đã chết yểu vì cạn kiệt tinh lực.
Tấn Ai Đế là một trường hợp đã thử nghiệm. Ông lên ngôi năm 21 tuổi và đã nhanh chóng mê thuật trường sinh. Rất nhiều đạo sĩ, phương thuật vào ra cung đình để truyền cho ông bí thuật trường thọ. Ông làm theo các phương pháp trường thọ của họ là nhập định, không ăn ngũ cốc, uống đơn dược để cầu bất lão. Tuy nhiên mỗi khi uống đơn dược là người ông nóng rực lên, dục tính bộc phát không sao kiềm chế nổi. Bởi thế chỉ trị vì được 4 năm, ông đã chết yểu vì cạn kiệt tinh lực.  
Tác giả Hướng Tư, trong cuốn Bí thuật dưỡng sinh của vua Càn Long phân tích về đơn dược mà Tấn Ai Đế dùng: “Đơn dược này là một loại thuốc tễ có tính nóng được chế từ các vị thuốc như hùng hoàng, dễ làm cho người ta nổi nóng. Loại thuốc này công hiệu giúp cho những thân thể bị suy nhược được cường tráng và mạnh khỏe hơn nhưng đối với một thanh niên cường tráng tràn đầy sức sống thì chẳng khác nào uống thuốc kích thích. Tấn Ai Đế uống thuốc này rồi thì mỗi ngày dược tính bộc phát không có cách nào khống chế nổi. Bởi thế mới 25 tuổi ông ta đã chết vì bị hưng phấn quá độ”.
 Tác giả Hướng Tư, trong cuốn Bí thuật dưỡng sinh của vua Càn Long phân tích về đơn dược mà Tấn Ai Đế dùng: “Đơn dược này là một loại thuốc tễ có tính nóng được chế từ các vị thuốc như hùng hoàng, dễ làm cho người ta nổi nóng. Loại thuốc này công hiệu giúp cho những thân thể bị suy nhược được cường tráng và mạnh khỏe hơn nhưng đối với một thanh niên cường tráng tràn đầy sức sống thì chẳng khác nào uống thuốc kích thích. Tấn Ai Đế uống thuốc này rồi thì mỗi ngày dược tính bộc phát không có cách nào khống chế nổi. Bởi thế mới 25 tuổi ông ta đã chết vì bị hưng phấn quá độ”.
Sau Tấn Ai Đế, vua Bắc Ngụy là Đạo Vũ Đế cũng gặp phải bi kịch vì thuốc trường sinh. Thời trẻ, ông là một anh hùng, mới 16 tuổi đã lập nên đế quốc Bắc Ngụy cường thịnh. Trước tuổi 30, Đạo Vũ Đế quan tâm chính sự nên nước mạnh dân no ấm. Nhưng từ năm 30 tuổi trở đi ông bắt đầu ham mê thuật trường sinh. Cũng như Tấn Ai Đế, ông tin dùng các loại tiên đan và đặc biệt là ăn một lượng lớn hàn thực tán. Điều đó khiến thần trí ông ta luôn bấn loạn, vui buồn bất thường, suốt ngày cứ đi lại vật vờ như bị quỷ ám trong cung.
 Sau Tấn Ai Đế, vua Bắc Ngụy là Đạo Vũ Đế cũng gặp phải bi kịch vì thuốc trường sinh. Thời trẻ, ông là một anh hùng, mới 16 tuổi đã lập nên đế quốc Bắc Ngụy cường thịnh. Trước tuổi 30, Đạo Vũ Đế quan tâm chính sự nên nước mạnh dân no ấm. Nhưng từ năm 30 tuổi trở đi ông bắt đầu ham mê thuật trường sinh. Cũng như Tấn Ai Đế, ông tin dùng các loại tiên đan và đặc biệt là ăn một lượng lớn hàn thực tán. Điều đó khiến thần trí ông ta luôn bấn loạn, vui buồn bất thường, suốt ngày cứ đi lại vật vờ như bị quỷ ám trong cung.

Do trong người không bình thường dẫn đến những hành vi của ông cực kỳ tàn nhẫn, có thể giết người để mua vui ở ngay trong triều, cung viện, ở kinh sư và cả ở những vùng quê hoang vắng. Vậy là từ một minh quân anh hùng trở nên kẻ điên khùng chỉ vì uống “tiên đan” rởm.
 Do trong người không bình thường dẫn đến những hành vi của ông cực kỳ tàn nhẫn, có thể giết người để mua vui ở ngay trong triều, cung viện, ở kinh sư và cả ở những vùng quê hoang vắng. Vậy là từ một minh quân anh hùng trở nên kẻ điên khùng chỉ vì uống “tiên đan” rởm.
Thời nhà Minh, nước Trung Quốc đạt được những tiến bộ đáng kể. Văn hóa phát triển rực rỡ nhưng các vua chúa vẫn rất tin tưởng vào tiên đan trường sinh bất lão mà không biết nhìn các tấm gương đời trước. Điển hình trong các ông vua nhà Minh có Minh Thế Tông (niên hiệu Gia Tĩnh). Ông ta say mê thuật trường sinh đến nỗi bỏ luôn cả việc chính sự. Lý do Thế Tông bỏ việc triều đình là vì ông ta còn bận ở hậu cung để thực hiện phép trường sinh do một đạo sĩ tên là Đào Trọng Văn bày cho.
Thời nhà Minh, nước Trung Quốc đạt được những tiến bộ đáng kể. Văn hóa phát triển rực rỡ nhưng các vua chúa vẫn rất tin tưởng vào tiên đan trường sinh bất lão mà không biết nhìn các tấm gương đời trước. Điển hình trong các ông vua nhà Minh có Minh Thế Tông (niên hiệu Gia Tĩnh). Ông ta say mê thuật trường sinh đến nỗi bỏ luôn cả việc chính sự. Lý do Thế Tông bỏ việc triều đình là vì ông ta còn bận ở hậu cung để thực hiện phép trường sinh do một đạo sĩ tên là Đào Trọng Văn bày cho.

Giải mã bí thuật hồi xuân của Từ Hy Thái hậu

(Kiến Thức) - Để chăm sóc sắc đẹp và níu kéo tuổi xuân, Từ Hy Thái hậu đã tinh tế lựa chọn, áp dụng những bí thuật siêu xa xỉ và cầu kỳ. 

Giải mã bí thuật hồi xuân của Từ Hy Thái hậu
Theo các tài liệu lịch sử, Từ Hy Thái hậu đã có bí quyết chăm sóc sắc đẹp vô cùng công phu từ những món ăn cho đến sử dụng những thực phẩm, dụng cụ chăm sóc sắc đẹp.
Theo các tài liệu lịch sử, Từ Hy Thái hậu đã có bí quyết chăm sóc sắc đẹp vô cùng công phu từ những món ăn cho đến sử dụng những thực phẩm, dụng cụ chăm sóc sắc đẹp.

Bí thuật ướp xác lạ kỳ ở xứ Phù tang

Để xác không thối rữa khi lìa đời, nhà sư Nhật Bản tự thực hiện phương pháp vô cùng khắc nghiệt để tống mỡ, chất dịch ra khỏi cơ thể.

Bí thuật ướp xác lạ kỳ ở xứ Phù tang
Kukai (774-835) là một quan chức, nhà sư, học giả, nhà thơ, họa sĩ. Ông sáng lập Shingon - một giáo phái bí ẩn dựa trên sự kết hợp của Phật giáo, đạo Shinto, đạo Giáo và nhiều tôn giáo khác. Các thành viên của giáo phái tôn thờ truyền thống Shugendo, nghĩa là họ sống khắc kỷ để đạt tới sức mạnh bí ẩn của tinh thần. Trong khoảng thời gian cuối đời, Kukai tự đưa cơ thể vào trạng thái thiền định sâu, không sử dụng nước và thực phẩm để chết tự nguyện, Epoch Times đưa tin. Các đệ tử chôn ông trên núi Koya, tỉnh Wakayama.

Đọc nhiều nhất

Tin mới