Hải Thượng Lãn Ông khiến thầy thuốc Trung Hoa tâm phục khẩu phục thế nào?

(Kiến Thức) - Trong Y dương án, Lãn Ông đã kể lại câu chuyện ông hai lần phải luận tranh với một viên thầy thuốc người Trung Quốc để đập tan luận điệu bệnh nặng không chữa nổi của người này, khiến ông ta phải tâm phục khẩu phục. 
 

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) là đại danh y của Việt Nam dưới thời trung đại. Ông đã để lại cho đời bộ sách đồ sộ mang tên Hải Thượng y tông tâm lĩnh, gồm 66 quyển, kết tinh toàn bộ tài năng, kinh nghiệm và những suy ngẫm của ông về việc chữa bệnh cứu người. Trong đó, ở quyển mang tên Y dương án, Lãn Ông đã kể lại một số ca cứu chữa thành công của mình, qua đó giúp hậu thế hiểu thêm về tài năng của ông.
Trong Y dương án, Lãn Ông đã kể lại câu chuyện ông hai lần phải luận tranh với một viên thầy thuốc người Trung Quốc để đập tan luận điệu bệnh nặng không chữa nổi của người này, khiến ông ta phải tâm phục khẩu phục.
Hai Thuong Lan Ong khien thay thuoc Trung Hoa tam phuc khau phuc the nao?
 Chân dung Hải Thượng Lãn Ông.
Tranh luận để cứu người
Chuyện kể rằng, tại miền Nghệ An nơi Hải Thượng Lãn Ông sinh sống, có viên thầy thuốc họ Lâm là lang y trong dinh quan giữ đồn Vĩnh Dinh, vốn là người Tàu, khá am hiểu y thuật nên được quan quân rất kính nể. Có một lần, thân mẫu của quan giữ đồn Vĩnh Dinh đã ngoài 70 tuổi bị cảm mạo hơn tháng không khỏi, sau đó lại trót ăn bánh nên đầy bụng khó tiêu. Thầy thuốc họ Lâm dốc sức cứu mà không được, bệnh cứ biến chứng lung tung. Quan Vĩnh Dinh cho là hết cách, một mặt chuẩn bị hậu sự cho bà cụ, mặt khác cho người đi mời Lãn Ông như một cách cầu may.
Lãn Ông thăm khám thì thấy lão phu nhân tinh thần rối loạn, đỉnh đầu nóng như lửa đốt, mồ hôi dầm dề, ngực cũng nóng như lửa, người vật vã không yên, lại thêm chứng trướng khiến càng thêm suy nhược.
Lãn Ông bắt mạch thật kĩ và phát hiện khí âm trong cơ thể gần như tiêu tan hết, khí dương còn không bao nhiêu, tình hình rất nguy ngập. Trong lúc này, nếu theo biểu hiện bệnh mà trị sẽ khiến khí dương càng suy kiệt, ắt tính mạng bị đe doạ. Đó là điều họ Lâm và các thầy thuốc khác không biết, cứ theo bệnh mà chữa, để đến tình cảnh ngày nay. Ông suy tính phải gấp dùng thuốc bồi bổ Thận – thuỷ để giữ gìn nguyên khí, khiến nó thêm sinh sôi thì mới cứu vãn kịp.
Lãn Ông cho mọi người biết với tình hình hiện tại thì nên dùng thang “Bát vị hoàn”, trong đó giảm hai vị thuốc là Đan bì và Trạch tả, thêm vào ba vị là Mạch môn, Ngũ vị và Ngưu tất rồi pha nước Nhân sâm vào cho uống. Ông chẳng ngờ do đó mà nổ ra cuộc tranh luận giằng co với thầy thuốc họ Lâm.
Họ Lâm lắc đầu, cho rằng nhất thiết không nên vì cơ thể lão phu nhân vốn thiên về thể âm, không ưa vị thuốc Thục địa trong thang “Bát vị hoàn”, nếu uống vào thì đầy trướng ngay. Lãn Ông hỏi lại theo ý họ Lâm thì nên làm sao? Họ Lâm nhanh nhảu: “Cấp thì chữa ngọn trước, nên uống bài Trung mãn phân tiêu”. Lãn Ông phản bác ngay: “Chút khí mỏng manh cần phải giữ lại, còn sợ không kịp, làm sao lại còn tiêu khí đi? Tôi lập phương này là chữa mạch chứ không chữa bệnh”.
Họ Lâm không chịu khuất, bảo rằng không được thì dùng bài “Hương sa Lục quân thang”. Biết thang thuốc họ Lâm nói có bao hàm một số vị thuốc là Nhân sâm, Trần bì, Bán hạ, Sa nhân đều là các thứ không thể đưa vào người lão phu nhân lúc này, Lãn Ông càng phản ứng dữ: “Nhân sâm và Trần bì thì lại giúp cho việc tiết mất nguyên khí, phàm những phương thuốc chữa bệnh nguy cấp người xưa không dám để hai vị này đồng đội với nhau, vả lại Bán hạ tính hoạt, Sa nhân cay thơm, cũng không phải là thuốc cố bản”. Họ Lâm vẫn cố cãi: “Tôi từ trước đến nay vẫn điều thuốc cho phu nhân, nếu uống Thục địa vào thì bĩ đầy ngay”.
Thấy hai bên đôi co mãi, quan đồn Vĩnh Dinh sốt ruột, nói thẳng với Lãn Ông rằng dùng Thục địa không được, phải đổi phương khác, không thì phải bớt một nửa. Nào ngờ Lãn Ông vẫn quả quyết: “Bài Bát vị dùng Thục địa làm quân, là trọng ở chân âm, bổ thuỷ để phối hoả, tư âm để dưỡng dương…, nay bệnh đương thuỷ suy hoả bốc, giảm Thục địa đi thì quân chủ yếu lấy chi mà điều khiển được các vị khác, như thế thì chỉ có tiếng là Bát vị mà không có thực chất Bát vị”.
Quan lớn nghe thế càng nghi ngại, cứ dùng dằng không quyết. Lãn Ông hết cách thuyết phục, đành xin cáo lui.
Hai Thuong Lan Ong khien thay thuoc Trung Hoa tam phuc khau phuc the nao?-Hinh-2
 Thục địa là vị thuốc quan trọng để cứu mạng lão phu nhân.
Khi Lãn Ông mới ra đến cổng thì gặp người cháu họ của quan giữ đồn đang đi vào. Vốn nghe danh và trọng tài Lãn Ông, người cháu quan giữ đồn liền giữ Lãn Ông lại, mời ông cùng vào để mình phân tích thiệt hơn cho quan lớn nghe.
Thấy Lãn Ông quay vào, quan lớn lại hỏi. Ông vẫn trả lời như cũ, không thay đổi lời nào, lời nói và sắc mặt còn nghiêm nghị hơn trước. Người cháu quan cũng hết sức nói giúp. Bấy giờ quan lớn mới bất đắc dĩ chấp thuận.
Được lời như cởi tấm lòng, Lãn Ông theo phương đã vạch, tự thân xuống bếp sắc nấu. Quả nhiên uống hết một thang thì lão phu nhân cơn nóng lui hết, bớt ra mồ hôi, tinh thần tỉnh táo, đã có thể ăn được đôi chút. Lãn Ông hiểu đó là vì khí dương chưa về hết chỗ cũ, liền điều chế bài thuốc “Sinh mạch” để người bệnh uống thay nước chè. Dùng “Bát vị hoàn thang” kết hợp với uống bài “Sinh mạch” thêm vài thang nữa thì lão phu nhân ăn uống ngày càng khá. Sau khoảng 10 ngày, bệnh nhân khỏi hẳn, thấy còn khoẻ mạnh hơn xưa.
Viên quan từ đấy tuy vẫn dùng họ Lâm nhưng mỗi khi trong nhà có người mắc trọng bệnh đều cậy nhờ đến Lãn Ông.
Lần thứ hai đối đầu họ Lâm
Sau lần chữa khỏi bệnh cho thân mẫu quan trấn giữ Vĩnh Dinh, Hải Thượng Lãn Ông thường qua lại nơi này. Viên thầy thuốc họ Lâm vẫn hành nghề như cũ. Có điều trong thực tâm, người này vẫn tự phụ về tài năng, cho rằng Hải Thượng Lãn Ông chỉ là một ông lang bình thường mà thôi.
Một lần nọ, khi đang đi trên đường, họ Lâm tình cờ gặp Hải Thượng Lãn Ông. Thấy Lãn Ông bắt chuyện và hỏi thăm, họ Lâm mới thuật rõ đầu đuôi việc mình vừa làm.
Số là viên tiểu tướng trong đồn Vĩnh Dinh tên Huấn Vũ, ngày nọ đang nhồi bùn trát nhà bỗng nhiên ngã lăn ra, chân tay cứng đơ, mình ngay như cây gỗ và nóng như lửa đốt, mắt nhắm miệng ngậm chặt, trong miệng có rất nhiều đờm, mê sảng không biết gì, đại tiểu tiện rất bí. Huấn Vũ bị như thế đã hai ngày đêm. Người nhà mời 4, 5 thầy thuốc đến, ai cũng cho là bị trúng phong (ngày nay gọi là tai biến mạch máu não, đột quỵ). Họ dùng các thuốc chủ trị chứng này nhưng tất cả đều không công hiệu.
Sau đó bệnh càng nhiều biến chứng. Bệnh nhân miệng há hốc, mắt mở trừng trừng, tay chân lạnh toát, mình cứng đơ không xoay trở được, đại tiểu tiện mất kiểm soát, cứ tự són ra. Gia quyến thấy nguy cấp quá mới đi mời thầy thuốc họ Lâm.
Họ Lâm đến xem bệnh, bắt mạch hồi lâu rồi phán như đinh đóng cột rằng: “Sáu mạch trầm tuyệt, chứng chết đã rõ, không còn lẽ nào sống được”. Nói xong thì về thẳng. Họ Lâm đi chưa được bao lâu thì gặp Lãn Ông. Qua lời Lâm, Lãn Ông biết được sự tình của bạn mình (Lãn Ông và Huấn Vũ có giao tình rất tốt). Ông vội kéo họ Lâm cùng trở lại nhà Huấn Vũ.
Đến nơi, Lãn Ông thấy rằng mắt Huấn Vũ tuy đã đờ đẫn đi nhưng con ngươi vẫn còn chuyển động, tay chân tuy lạnh nhưng thân thể còn hơi ấm. Huấn Vũ không nói được, chỉ ứa nước mắt nhìn bạn.
Lãn Ông bắt mạch thì thấy hai mạch Xung dương và Thái khê vẫn đập như thường, hỏi kĩ lại thì mới biết do dùng nhầm thuốc nên càng thêm nặng chứ không phải bệnh tự phát các biến chứng. Huấn Vũ vốn thể chất không khoẻ, khí âm khí dương trong cơ thể đều hư hao nên chẳng may bị như vậy, rõ ràng là cơ thể suy nhược quá độ nên tự sinh ra bệnh làm cho khí ở trong bị hao hụt nên người mới lạnh toát; vì vậy, dù bên ngoài có biểu hiện của chứng trúng phong nhưng chỉ là giả tượng mà thôi. Các thầy thuốc khác không hiểu hết cái lẽ của căn bệnh, cứ máy móc theo biểu hiện mà trị làm bệnh thêm nguy, khiến tính mạng bệnh nhân như chuông treo sợi chỉ.
Sau khi phân tích kĩ mọi lẽ, Lãn Ông cam đoan với vợ con Huấn Vũ: “Bệnh này tuy khó khăn thực, nhưng tôi hết sức, tất cứu vãn được”. Ai cũng trông mong hi vọng, duy chỉ họ Lâm cười mà mỉa mai rằng: “Ông chữa sống được bệnh nhân này thực là người thần, tôi xin đi hầu ông, không dám làm thuốc nữa!”.
Trước sự thiếu hiểu biết nhưng cao ngạo và khinh miệt của họ Lâm, Lãn Ông không thèm đôi co, chỉ tuyên bố: “Tôi không chữa khỏi được bệnh này, thề cũng không dám làm thuốc nữa!”. Nói xong, mỗi người đi một ngả.
Hai Thuong Lan Ong khien thay thuoc Trung Hoa tam phuc khau phuc the nao?-Hinh-3
Họ Lâm từ đó luôn giữ thái độ bẽn lẽn mỗi khi gặp Lãn Ông (Hình minh họa).  
Lãn Ông dùng bài thuốc “Sâm phụ thang”, điều chế thành dạng viên (gọi là tễ) và cho Huấn Vũ uống. Huấn Vũ dùng hết hai tễ, trong khoảng từ giờ Ngọ (11-13 giờ) đến sau giờ Mùi (13-15 giờ) thì chân tay nóng lại như trước, mắt đã nhắm được lim dim, lưỡi đã chuyển động ra vào được, chỉ có ở rốn vẫn nóng như lửa. Lãn Ông biết là khí dương trong cơ thể đã hồi phục, như thế thì bệnh tất khỏi, không phải lo lắng quá nữa. Ông liền thay thuốc, dùng thang “Bát vị” có điều thêm các vị Ngưu tất, Đỗ trọng, Ngũ vị, điều chế thành dạng viên rồi cho uống. Sau 3 tễ quả nhiên Huấn Vũ mở và nhắm mắt được, miệng biết nhai nuốt trở lại, có thể trở mình, bụng biết đói, da biết đau ngứa, đại tiểu tiện dần được điều hòa. Mặc dù vậy, chân tay ông vẫn chưa co duỗi được, nói năng còn ú ớ.
Lê Hữu Trác lại chế bài “Bát vị”, nhưng bỏ vị thuốc Phụ tử mà thay bằng các vị Ngưu tất, Đỗ trọng, Đương quy, Bạch thược, Lộc nhung, cho uống xen với thang thuốc “Quy tì” có bỏ vị Mộc hương mà thêm vị Quế tâm. Cứ như vậy điều bổ hơn một tháng thì Huấn Vũ khỏi hết các chứng, đi lại như thường, khí lực tinh thần lại khỏe hơn trước. Trên dưới trong nhà Huấn Vũ, ai cũng mến đức nhớ ơn, xem Lãn Ông là vị đại ân nhân của gia đình.
Một lần nữa, sau khi kể lại câu chuyện, Lãn Ông đã tự rút ra bài học cho mình. Đây cũng là kinh nghiệm rất hữu ích cho những lương y đời sau. Theo Lãn Ông thì qua lần này mới “càng thấy câu: “Chữa bệnh tất phải tìm đến gốc, chữa ngàn người không sểnh một người” thực đúng không sai. Người không tinh, hễ thấy thốt nhiên ngã lăn ra liền cho là phong, ví như một cái cây, gốc rễ vững vàng, dù rằng gió táp mưa sa, cũng không siêu đổ được, mà đã đến phải siêu đổ, đều là do gốc rễ không vững chắc cả”.
Về phần thầy thuốc họ Lâm, sau khi biết Huấn Vũ khỏi bệnh, mới rõ thực sự bản thân quá kém cỏi, y thuật không bằng người nhưng cứ lớn tiếng khích bác, chê bai nên rất lấy làm hổ thẹn. Từ đó mỗi khi gặp Hải Thượng Lãn Ông, họ Lâm đều có ý bẽn lẽn, không dám kênh kiệu như trước. Lê Hữu Trác cũng không chấp nhặt, chẳng bao giờ nhắc lại chuyện cũ.

Mời quý độc giả xem video: Lễ hội cầu sức khỏe Hải Thượng Lãn Ông. Nguồn: VTC1. 

Bảo tàng y học độc nhất vô nhị Việt Nam có gì?

(Kiến Thức) - Trong một không gian mang màu sắc hoài cổ, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động.

Tọa lạc tại số 41 Hoàng Dư Khương, Q. 10 TP HCM, Bảo tàng Y học cổ truyền Việt Nam - một trong số ít bảo tàng tư nhân trong nước - là nơi đem đến nhiều điều bất ngờ cho du khách tới thăm quan. Ảnh: Bàn thờ Y tổ đặt tại bảo tàng, nơi có tượng và bát vị thờ hai danh y được coi là ông tổ của Y học cổ truyền Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ 18).
Tọa lạc tại số 41 Hoàng Dư Khương, Q. 10 TP HCM, Bảo tàng Y học cổ truyền Việt Nam - một trong số ít bảo tàng tư nhân trong nước - là nơi đem đến nhiều điều bất ngờ cho du khách tới thăm quan. Ảnh: Bàn thờ Y tổ đặt tại bảo tàng, nơi có tượng và bát vị thờ hai danh y được coi là ông tổ của Y học cổ truyền Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷ 14) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ 18).
Ấn tượng đầu tiên về bảo tàng là phần lớn nội thất của bảo tàng được thiết kế bằng gỗ với nhiều họa tiết rất tinh xảo. Trong số đó có một khung nhà cổ được gia đình lương y Vũ Hữu Ấn ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm - Hà Nội tặng (ảnh).
Ấn tượng đầu tiên về bảo tàng là phần lớn nội thất của bảo tàng được thiết kế bằng gỗ với nhiều họa tiết rất tinh xảo. Trong số đó có một khung nhà cổ được gia đình lương y Vũ Hữu Ấn ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm - Hà Nội tặng (ảnh).
Trong không gian hoài cổ đó, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động. Ảnh: Mô hình nhà thuốc Nam với dãy kệ nhiều tầng chứa hàng chục vị thuốc khác nhau.
Trong không gian hoài cổ đó, hình ảnh các hoạt động y học cổ truyền Việt Nam đã được tái hiện qua các mô hình sinh động. Ảnh: Mô hình nhà thuốc Nam với dãy kệ nhiều tầng chứa hàng chục vị thuốc khác nhau.
Đây là mô hình một tiệm thuốc Bắc với bộ tủ và quầy bán thuốc là bộ đồ gỗ có từ thế kỷ 19. Đặc trưng của một tiệm thuốc Bắc là chiếc tủ đựng thuốc có nhiều ngăn kéo, mỗi vị thuốc được đựng trong một ngăn kéo khác nhau. Chiếc tủ này có 9X9 (81) ngăn kéo.
Đây là mô hình một tiệm thuốc Bắc với bộ tủ và quầy bán thuốc là bộ đồ gỗ có từ thế kỷ 19. Đặc trưng của một tiệm thuốc Bắc là chiếc tủ đựng thuốc có nhiều ngăn kéo, mỗi vị thuốc được đựng trong một ngăn kéo khác nhau. Chiếc tủ này có 9X9 (81) ngăn kéo.
Thuốc được “bốc” theo đơn của các thầy thuốc, được gói trong những gói giấy gọi là “thang” thuốc đủ một lần “sắc” hay ngâm rượu.
Thuốc được “bốc” theo đơn của các thầy thuốc, được gói trong những gói giấy gọi là “thang” thuốc đủ một lần “sắc” hay ngâm rượu.
Hàng trăm loại cây thuốc đã được hệ thống hóa một cách bài bản, khoa học, bài trí rất ấn tượng.
 Hàng trăm loại cây thuốc đã được hệ thống hóa một cách bài bản, khoa học, bài trí rất ấn tượng.
Bộ sưu tập dụng cụ bào chế thuốc y học cố truyền là một nét đặc sắc khác của bảo tàng. Trong ảnh là thuyền tán - dụng cụ để tán thuốc khô thành bột.
Bộ sưu tập dụng cụ bào chế thuốc y học cố truyền là một nét đặc sắc khác của bảo tàng. Trong ảnh là thuyền tán - dụng cụ để tán thuốc khô thành bột.
Người dược sĩ sẽ ngồi trên ghế và sử hai dụng chân để quay bánh xe của thuyền tán nằm dưới đất.
Người dược sĩ sẽ ngồi trên ghế và sử hai dụng chân để quay bánh xe của thuyền tán nằm dưới đất.
Bàn nghiền có công dụng như thuyền tán, nhưng thô sơ hơn.
Bàn nghiền có công dụng như thuyền tán, nhưng thô sơ hơn.
Dao cầu là dụng cụ để cắt thuốc thành những phiến mỏng. Trong bộ sưu tập của bảo tàng có một số chiếc dao cầu được sưu tầm từ quê hương của Tuệ Tĩnh ( xã Cẩm Sơn – Cẩm Giàng – Hải Dương ) và Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn - Hà Tĩnh ).
Dao cầu là dụng cụ để cắt thuốc thành những phiến mỏng. Trong bộ sưu tập của bảo tàng có một số chiếc dao cầu được sưu tầm từ quê hương của Tuệ Tĩnh ( xã Cẩm Sơn – Cẩm Giàng – Hải Dương ) và  Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn - Hà Tĩnh ). 
Bàn cân là vật dụng không thể thiếu để xác định khối lượng các thành phần của thang thuốc. Bảo tàng có hàng chục mẫu cân khác nhau, chia thành hai loại chính là cân tây và cân ta.
Bàn cân là vật dụng không thể thiếu để xác định khối lượng các thành phần của thang thuốc. Bảo tàng có hàng chục mẫu cân khác nhau, chia thành hai loại chính là cân tây và cân ta.
Một hộp đựng các vị thuốc quý.
Một hộp đựng các vị thuốc quý.
Ván gỗ, triện gỗ để in các đơn thuốc và toa thuốc.
Ván gỗ, triện gỗ để in các đơn thuốc và toa thuốc.
Bình rượu thuốc. Người xưa lưu truyền phương pháp ngâm rượu để đạt được chất lượng cao nhất là phương pháp ngâm “Hạ thổ ”- nghĩa là chôn xuống đất một thời gian.
Bình rượu thuốc. Người xưa lưu truyền phương pháp ngâm rượu để đạt được chất lượng cao nhất là phương pháp ngâm “Hạ thổ ”- nghĩa là chôn xuống đất một thời gian.
Bát chén dùng trong cuộc sống hàng ngày cũng được dùng để uống thuốc sắc. Một số chén của bảo tàng là bản gốc còn lưu lại từ một số nhà thuốc cổ, trên đó còn ghi tên các nhà thuốc như hiệu Thiên Hòa Đường cách đây 100 năm.
Bát chén dùng trong cuộc sống hàng ngày cũng được dùng để uống thuốc sắc. Một số chén của bảo tàng là bản gốc còn lưu lại từ một số nhà thuốc cổ, trên đó còn ghi tên các nhà thuốc như hiệu Thiên Hòa Đường cách đây 100 năm. 

Danh nhân nước Việt và giai thoại ly kỳ về dê (1)

(Kiến Thức) - Trong lịch sử Việt Nam, tuy những giai thoại về danh nhân liên quan đến con dê hay năm Mùi không nhiều nhưng chứa đựng nhiều chi tiết ly kỳ.

Yết Kiêu, Dã Tượng coi người làm thịt dê tên Duyệt là thầy

Đọc nhiều nhất

Tin mới