Giải mã tài trí của người Việt khiến giặc phương Bắc “sợ vỡ mật”

(Kiến Thức) - Lịch sử bang giao phong kiến Việt Nam với Trung Quốc đã chứng kiến nhiều vụ đối đáp của sứ thần Việt Nam khiến giặc phương Bắc phải nể sợ.

Giải mã tài trí của người Việt khiến giặc phương Bắc “sợ vỡ mật”
Ngô Thì Nhậm lời mềm ý cứng
Thời Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm là nhà ngoại giao tài ba được Quang Trung ủy nhiệm giao thiệp với Trung Quốc. Ông đã đem hết tài năng của mình vào việc ngoại giao với triều đình nhà Thanh nhằm giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia.
Việc đầu tiên sau chiến thắng Kỷ Dậu 1789 là ngăn chặn ý chí báo thù của nhà Thanh. Nước Việt Nam nhỏ, tiềm lực không nhiều, nếu quân Thanh lại tiếp tục sang đánh ngay thì nhân dân vốn đã lầm than khốn khổ trong mấy trăm năm nội chiến sẽ lại càng điêu linh. Vua Quang Trung chủ trương dùng lời lẽ mềm mỏng để ngăn chặn ý chí đó của nhà Thanh.
Giai ma tai tri cua nguoi Viet khien giac phuong Bac “so vo mat
 Tượng thờ Ngô Thì Nhậm trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt (Bảo tàng Quang Trung, Bình Định). Nguồn: Wikipedia.
Nhiệm vụ này được giao cho Ngô Thì Nhậm và ông đã hoàn thành xuất sắc với những lời lẽ mềm mỏng mà kiên quyết khi thư từ giao thiệp với Trung Quốc.
Sách Các sứ thần Việt Nam của Phạm Trường Khang cho biết, khi thư từ qua lại với Thang Hùng Nghiệp (một đầu mối ngoại giao của triều Thanh với Tây Sơn), Ngô Thì Nhậm đã có lời lẽ mềm mỏng nhưng cũng không kém phần cương quyết, khiến giặc phương Bắc nể sợ.
Vào thời đó có tin vua Càn Long cử Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng và điều cho 50 vạn quân để ứng phó ở biên giới. Trong bức thư gửi cho Thang Hùng Nghiệp, Ngô Thì Nhậm đã nói ý rằng không phải cứ quân đông là có thể thắng.
Theo sách Các sứ thần Việt Nam của Phạm Trường Khang Ngô Thì Nhậm viết: “Nay quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu. Nếu tình hình trên không được bày tỏ, Thiên triều không khoan dung, muốn động binh chinh chiến thì nước nhỏ không được thờ nước lớn, tôi cũng đành nhờ trời mà thôi”.
Cũng có khi Ngô Thì Nhậm tỏ ra rất cương quyết cứng rắn với triều Thanh. Trong tờ biểu viết thay Quang Trung để cầu phong Vương, Ngô Thì Nhậm nói thẳng với Thang Hùng Nghiệp rằng nếu Thanh triều muốn làm một cuộc phiêu lưu quân sự khác thì sự thể chưa biết thế nào. Ông viết: “Còn nếu chiến tranh kéo dài, tình thế có đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn mà thần cũng không dám nói trước rồi tình thế sẽ đi đến đâu”.
Lời nói khiến Thang Hùng Nghiệp phải sợ hãi mà lên tiếng: “Nay không phải là lúc hai nước đánh nhau sao lại phải hành sự toàn là giọng giận dữ. Nói như thế là để cầu phong vương hay muốn gây hấn can qua chăng?”. Câu nói của Thang Hùng Nghiệp cho thấy nhà Thanh từ chỗ muốn đánh báo thù đã phải xuống thang trước thái độ cứng rắn của Tây Sơn qua những tờ biểu do Ngô Thì Nhậm soạn.
Mạc Đĩnh Chi thể hiện khí phách độc lập tự chủ
Trong gần 1.000 năm bang giao giữa phong kiến Việt Nam và phong kiến Trung Quốc, không hiếm những câu chuyện đối đáp của sứ thần Việt Nam ở triều đình Trung Quốc. Ở đây xin kể lại câu chuyện của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đời Trần.
Sách Các ông trạng Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh kể: “Trong chuyến đi sứ nhà Nguyên, một lần Mạc Đĩnh Chi đến nhà viên Thừa tướng triều Nguyên chơi. Nhân trong lúc gặp gỡ, viên Thừa tướng nọ ra một vế đối: “An khử nữ dĩ thỉ vi gia” nghĩa đen là chữ An bỏ bộ Nữ và thêm bộ Thỉ vào thành chữ Gia nhưng nghĩa bóng là nước Nguyên nhất quyết muốn xóa bỏ nước An Nam để nhập thành châu huyện của họ. 
Giai ma tai tri cua nguoi Viet khien giac phuong Bac “so vo mat
 Tượng Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, thờ ở chùa Dâu, Bắc Ninh. Nguồn: Wikipedia.
Mạc Đĩnh Chi rất nhanh nhẹn đối lại rất sắc bén: “Tù xuất nhân, lập vương thành quốc” nghĩa đen là chữ Tù bỏ đi chữ Nhân, thêm chữ Vương vào thành chữ Quốc. Nghĩa bóng là dân ta nhất định xóa bỏ ách áp bức của các thế lực xâm lược để xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ”.
Trong sách Các sứ thần Việt Nam lại nêu một câu chuyện về vế đối của Mạc Đĩnh Chi với vua Nguyên. Sách viết: “Ngay hôm đầu vào bệ kiến, vua Nguyên muốn đích thân thử tài Mạc Đĩnh Chi và nhân thể dò khí tiết của ông nên ra câu đối: “Nhật hỏa vân yên bạch đản thiêu tàn ngọc thỏ” nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.
Biết vua Nguyên kiêu căng, tự coi mình là mặt trời và coi Đại Việt như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính, Mạc Đĩnh Chi thấy cần phải tỏ rõ thái độ của mình. Hơn thế, phải khẳng định nước Đại Việt ở thế thắng nên ứng khẩu đọc ngay: “Nguyệt cung tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô”. Câu này có nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.
Vế đối rất chỉnh mà cũng đầy khí phách của kẻ vừa chiến thắng 3 lần liền khiến vua Nguyên rất đau đớn nhưng cũng không làm sao được đành phục tài viên sứ thần Đại Việt.
Giai thoại về chuyện Mạc Đĩnh Chi đi sứ còn rất nhiều. Trong đó ngoài những lần thể hiện tài thơ văn ứng đối ra thì còn một lần ông đánh bại người chơi cờ tướng giỏi nhất Trung Quốc.
Cũng trong chuyến đi sứ này, Mạc Đĩnh Chi đã thắng cờ một người tự nhận là “Trạng cờ” Trung Quốc khiến người kia từ đó phải hạ tấm biển tự xưng “Trạng cờ” xuống. Thắng lợi này tuy chỉ là chuyện cá nhân nhưng qua đó cũng góp phần nâng cao thể diện quốc gia của Đại Việt.
Lịch sử bang giao giữa phong kiến Việt Nam với các triều đại Trung Quốc kéo dài suốt 1.000 năm với những cuộc chiến và những năm chung sống hòa bình xen kẽ. Tuy nhiên dã tâm biến nước ta thành quận huyện thì các triều đại Trung Quốc không bao giờ từ bỏ. Chính trong bối cảnh đó, ngoại giao cũng là một mặt trận đấu tranh quyết liệt mà sứ thần Việt Nam thường bị làm khó dễ, bị thử thách nhưng vẫn thường giành thắng lợi.

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía

(Kiến Thức) - Lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì vũ khí “thần cơ sang pháo” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại, khiến quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía
Vào thời nhà Hồ, thần cơ sang pháo và cổ lâu thuyền được coi là hai phát minh lớn về vũ khí do Hồ Nguyên Trừng - con trai cả của vua Hồ Quý Ly và là anh của vua Hồ Hán Thương sáng chế.
Kiểu đại bác đầu tiên của nước ta
Thuốc súng xuất hiện ở nước ta khá sớm, được sử dụng trong các lễ hội và cả trong quân sự. Từ cuối thế kỷ 14, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt.
Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng là kiểu đại bác đầu tiên của người Việt. 
Thời ấy, đầu thế kỷ 15, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đo, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét.
Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ" - kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng thần công ở những thế kỷ sau này.
Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao. Cấu tạo súng thần công bao gồm: thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy, rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.
Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn viết: con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”. Loại súng này có nhiều cỡ: lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai... Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai... Tuy nhiên, Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “thần cơ pháo” - thực chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.
Quân Minh khiếp sợ trước hỏa lực thần cơ sang pháo

Sử sách chép rằng, quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Song, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ vẫn thất bại và không được dân ủng hộ. Vào thời điểm đó, giặc Minh đã bắt được những cỗ thần cơ sang pháo, rất ngạc nhiên và khâm phục vì thần cơ sang pháo có nhiều ưu thế hơn hẳn các hoả pháo của quân Minh, nên lập tức vận chuyển về nước họ.

Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên.
Tháng 5/2013, trong lúc nạo vét luồng lạch trên đầm Thị Nại, TP.Quy Nhơn (Bình Định), đơn vị nạo vét lại phát hiện thêm một khẩu súng thần công nằm sâu dưới nước. Ảnh: Thanh Niên. 

Minh sử chép: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ... Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến (Trương Tú Dân).

Lại nói nhà Hồ, vào năm 1407, 17.000 người Việt gồm gia quyến quan tướng họ Hồ và quân lính Đại Việt bị đưa về Nam Kinh, Trung Quốc. Vì tính mạng của cha (Hồ Quý Ly), Hồ Nguyên Trừng buộc phải phục vụ cho nhà Minh trong việc trông coi xưởng đúc súng. Vua Minh muốn Hồ Nguyên Trừng vận dụng phương pháp chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội mình.

Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ghi rằng: "Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".
Như vậy, dù Trung Quốc là nơi đầu tiên phát minh ra thuốc súng nhưng nơi phát minh ra đại bác lại là Việt Nam. Đến hôm nay, người Việt rất tự hào về súng thần công. Nhiều khẩu thần công sang pháo được bảo quản, trưng bày trong các bảo tàng lớn tại Hà Nội, Huế...
Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Ông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam với tư cách một nhà kỹ thuật quân sự, công trình sư lỗi lạc, ông tổ của nghề đúc súng thần công của người Việt. 
Ngoài súng thần cơ, Hồ Nguyên Trưng còn là nhà sáng chế của thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng) và là tổng công trình sư của nhiều công trình kiến trúc, thủy lợi hoành tráng thời Hồ.

Giải mã trận hải chiến đánh chìm 500 thuyền giặc phương Bắc

(Kiến Thức) - Ngoài ý nghĩa chiến thắng một trận hải chiến thì trận thắng này còn là trận đánh bản lề xoay chuyển cục diện cuộc chiến tranh Nguyên – Việt lần thứ ba.

Giải mã trận hải chiến đánh chìm 500 thuyền giặc phương Bắc
Trong lịch sử cổ và trung đại Việt Nam, cha ông ta đã từng nhiều lần đánh thắng giặc bằng thủy chiến nhưng phần nhiều là ở trên sông hoặc cửa biển. Duy có trận đánh vào đoàn thuyền tải lương của quân Nguyên năm 1288 là diễn ra trên vùng biển. Điều đáng nói, ngoài ý nghĩa chiến thắng một trận hải chiến thì trận thắng này còn là trận đánh bản lề xoay chuyển cục diện cuộc chiến tranh Nguyên – Việt lần thứ ba.
Giai ma tran hai chien danh chim 500 thuyen giac phuong Bac
 Minh họa cảnh trận hải chiến ở Vân Đồn.
Bởi lẽ sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, nhà Nguyên lại huy động lực lượng sang tiến đánh. Rút kinh nghiệm người Việt dùng kế “vườn không nhà trống” trong những lần trước, lần này nhà Nguyên chuẩn bị chu đáo, làm một đoàn thuyền 500 chiếc để chở 17 vạn thạch lương sang nuôi quân chứ không trông chờ vào thủ đoạn cướp bóc dọc được theo kiểu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” như trước. Cũng chính vì thế, đoàn thuyền chở lương thực này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sức chiến đấu và tinh thần quân Nguyên.

10 câu nói lưu danh muôn thuở của anh hùng nước Việt

Lịch sử nước ta từng xuất hiện nhiều anh hùng kiệt xuất. Họ để lại những câu nói lưu danh muôn đời, trở thành bài học cho hậu thế noi theo.
 

10 câu nói lưu danh muôn thuở của anh hùng nước Việt
Bà Triệu (225-248) lãnh đạo nhân dân chống lại ách đô hộ của nhà Ngô vào thế kỷ III. Ở tuổi 19, khi bị ép làm tì thiếp cho một người giàu, bà đã thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người". Sau đó, bà cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa. Năm 248, cuộc khởi nghĩa thất bại, để không bị rơi vào tay giặc, bảo vệ danh tiết, bà tự sát ở núi Tùng (Thanh Hóa).
 Bà Triệu (225-248) lãnh đạo nhân dân chống lại ách đô hộ của nhà Ngô vào thế kỷ III. Ở tuổi 19, khi bị ép làm tì thiếp cho một người giàu, bà đã thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người". Sau đó, bà cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa. Năm 248, cuộc khởi nghĩa thất bại, để không bị rơi vào tay giặc, bảo vệ danh tiết, bà tự sát ở núi Tùng (Thanh Hóa).

Đọc nhiều nhất

Tin mới