Độc đáo thú tiêu khiển dịp Tết của vua chúa triều Nguyễn

Tết Nguyên đán là lễ quan trọng nhất trong năm. Theo đó, các vua chúa Việt có những quy định về việc đón Tết trong hoàng cung. Trong đó, các trò chơi ngày Tết của nhà vua, thân vương, quan lại được nhiều người quan tâm.

Theo mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên, công tác chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán trong hoàng cung triều Nguyễn kéo dài cả tháng và bắt đầu từ rất sớm.
Vào ngày đầu năm mới, các vua chúa nhà Nguyễn tổ chức các hoạt động khác nhau. Trong đó, Vua Gia Long sẽ đến Thái Miếu đầu tiên và kính cẩn làm lễ đầu xuân. Sau đó, nhà vua đến điện Thái Hòa làm lễ Khánh hạ, cùng các quan văn quan võ, ban yến tiệc và tiền thưởng xuân. Đến thời vua Tự Đức, ông mang biểu văn đến chầu cung hoàng mẫu đầu tiên, kính dâng 100 lạng vàng, 1.000 lạng bạc và lời chúc mừng nhân dịp đầu xuân đến Hoàng mẫu rồi mới về ngự ở điện Văn Minh cùng hoàng thân và văn võ đại thần, ban nước chè, ngồi đàm thoại.
Đến ngày mùng 2 Tết, các vua nhà Nguyễn thường tiếp tục ban thưởng yến tiệc và tiền, vàng cho các quan văn võ. Dưới thời vua Kiến Phúc, do ngày mồng 2 Tết vì trùng với sinh nhật nên vua mặc áo cát phục ngự điện Văn Minh trong khi hoàng thân, vương công, các quan văn võ đều mặc áo thịnh phục và tổ chức như ngày mồng 1 tết để mừng sinh nhật nhà vua.
Sang ngày mùng 3 Tết, các vua triều Nguyễn sẽ hạ lệnh làm lễ hóa vàng cầu âm phúc. Các loại hương trầm, bạch đàn, các loại giấy vàng, giấy bạc được bỏ vào lư đồng đốt để thấu đến thần linh.
Tới ngày mùng 7 Tết, ngày cuối cùng của dịp nghỉ Tết, triều đình cũng như toàn kinh thành sẽ tổ chức lễ hạ cây nêu, kết thúc nghỉ Tết. Cũng vào ngày này, các viên quan giữ ấn tín làm lễ khai ấn, mở các hòm ấn, tượng trưng cho năm làm việc mới bắt đầu.
Trong dịp Tết, vua chúa triều Nguyễn, thân vương và văn võ bá quan tiêu khiển với một số trò chơi mang tính giải trí cao và đề cao việc học hành. Trong các trò chơi chốn cung đình triều Nguyễn xưa, trò đổ xăm hường khá phổ biến. Một bộ xăm hường gồm 6 hạt xúc xắc cùng một bộ thẻ 6 loại. Các loại thẻ được gọi tên theo thứ tự là Nhất hường, Nhị hường, Tứ tự (hay còn gọi là Tứ tấn), Tam hường, Trạng em (Bảng nhãn, Thám hoa), Trạng anh (Trạng nguyên). Theo luật chơi, khi gieo 6 hột xúc xắc, ra xăm hường nào thì nhận thẻ tương ứng. Gieo đến khi hết thẻ xăm thì trò chơi kết thúc.
Một trò chơi khác phổ biến trong ngày Tết là trò bài vụ. Trò chơi này có một chiếc vụ hình bát giác được dán hình 8 con vật. Người chơi sẽ được phát các thể để đặt cược theo con vật nào, khi quay vụ, mặt nào nổi trên hình đúng với mặt đặt cược thì thắng.
Doc dao thu tieu khien dip Tet cua vua chua trieu Nguyen
Tranh minh họa trò chơi Đầu hồ. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Huế. 
Đầu hồ là một trò chơi thường được tổ chức trong cung đình triều Nguyễn. Đây là trò chơi có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập vào nước ta, được các vua triều Nguyễn ưu thích. Đầu trong tiếng Hán có nghĩa là “ném vào”. Hồ là “cái bầu”. Đầu hồ là trò chơi ném thẻ vào cái miệng hẹp của một cái bầu.
Bộ đồ chơi Đầu hồ gồm có 3 vật liệu chính: 12 chiếc thẻ tượng trưng cho 12 tháng trong năm, được vót từ một loại gỗ chắc nhưng rất dẻo, mỗi thẻ dài khoảng 68 cm, một đầu tiện tròn, một đầu phẳng.
Vật liệu thứ hai của trò chơi này là một miếng gỗ, mỗi bề rộng 20 cm, dày 4 cm. Vật liệu thứ ba gồm một cái bình hình quả bầu (hình tượng trưng cho sự giàu sang), không có đáy đặt trên một cái đế có căng mặt trống. Người chơi sẽ đứng cách cái bình khoảng 2,5 m, tay cầm chiếc thẻ ném xuống miếng gỗ trước mặt sao cho thẻ trúng miếng gỗ, búng lên không trung trước khi lộn đầu rơi tọt vào vào miệng bình.
Thẻ rơi trúng bình sẽ gõ vào trống nhỏ đặt dưới đế, phát ra tiếng “binh! binh!” báo hiệu thắng lợi. Tương truyền thời nhà Nguyễn, cứ sau những buổi yến tiệc trong dịp Tết, vua và các quan thường chơi trò này. Đây là trò chơi có độ khó cao. Người nào ném được nhiều thẻ vào bình sẽ trở thành người thắng cuộc. Kẻ thua phải dâng rượu cho người thắng.
Các vị vua triều Nguyễn rất thích văn thơ, đặc biệt là vua Tự Đức. Do vậy, vào dịp Tết Nguyên đán, nhà vua thường chọn 4 quan văn cùng chơi Họa ngự thi.
Tới gần giao thừa, các quan được chọn Họa ngự thi phải đứng đợi trước nhà mình, bên cạnh hương án, trầm hương nghi ngút, với hai lính hầu hai bên.
Khi nghe có tiếng ngựa hí, lục lạc kêu của kỵ mã do vua phái tới, 4 quan văn nhanh chóng mặc áo mão để tiếp lệnh vua. Kỵ mã dâng tráp cho quan, trong đó có bài ngự thi (thơ của vua). Quan nhận thơ của vua xong phải ngay lập tức vào vẽ lại bằng giấy hoa tiên.
Sau đó, viên kỵ mã tiếp tục đi giao cho 3 quan còn lại. Giao thơ cho quan cuối cùng xong, kỵ mã quay lại nhận bài họa của quan đầu tiên và cứ thế cho tới khi nhận hết 4 bức của 4 quan.
Nhà vua sẽ đợi trong cung để nhận 4 bài thi của các quan văn và đích thân chấm điểm. Tới ngày đầu năm mới, nhà vua cho cận thần công bố bài phụng họa hay nhất của một trong 4 quan văn để ban thưởng trước sự có mặt của văn võ bá quan trong triều.

Mời độc giả xem video: Huế - Bóng Dáng Kinh Đô Xưa. Nguồn:VTV Travel - Du Lịch Cùng VTV.

Ngắm tuyệt phẩm tái hiện chân dung các vị vua triều Nguyễn

Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
 Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.

Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam.
 Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam.

Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.
 Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.

Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp.
 Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp.

Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.
Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.

Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.
Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.

Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie).
 Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie). 

Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 1865.
 Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 1865.

Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại quốc.
 Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại quốc.

Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.
 Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.

Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.
 Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.

Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua. Hình ảnh: ABS Travel.
 Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua. Hình ảnh: ABS Travel.

Giả thiết phong thủy sự phát tích 13 đời vua nhà Nguyễn

Tương truyền, nhà Nguyễn phát tích nhờ mộ Triệu Tổ Nguyễn Kim được hổ táng, thiên táng vào long khẩu (miệng rồng) núi Triệu Tường, sau làng Gia Miêu. 

Nhà Nguyễn định đô ở Huế và đồi Hà Khê, nơi có chùa Thiên Mụ nổi tiếng được xác định là long mạch đế vương nhà Nguyễn.

Đọc nhiều nhất

Tin mới